Bên hành lang Quốc hội, tại kỳ họp thứ chín, Quốc hội khóa XIV, ngày 12-6, Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Trần Hồng Hà đã trao đổi với báo chí về thông tin liên quan tới một số vấn đề được đề cập tại dự án Luật Bảo vệ môi trường (sửa đổi).
Liên quan đến việc thu phí rác thải sinh hoạt theo khối lượng, Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Trần Hồng Hà cho biết, việc này không phải là đánh đồng bình quân, mà tính trên lượng rác, đo bằng khối lượng, thể tích để tính phí. Thông thường, nếu đo theo khối lượng thì không thực tế nên chủ yếu phải đo bằng thể tích mét khối rác. Tính theo thể tích là phù hợp hơn và thể tích rác nhiều thì phải trả tiền nhiều hơn.
“Vấn đề này không được quy định cụ thể trong Luật Bảo vệ môi trường (sửa đổi) mà luật sẽ chỉ đưa ra nguyên tắc, trên cơ sở đó các địa phương quy định chi tiết về quá trình thực thi. Việc này có thể được cụ thể hóa bằng nghị định, thông tư”, Bộ trưởng Trần Hồng Hà nói.
Theo ông Hà, liên quan tới chất thải sinh hoạt, nghiên cứu của Việt Nam cho thấy, 40% là thành phần thực phẩm, hữu cơ và vật liệu có thể tái chế. Do đó, trong luật trình Quốc hội lần này đã quan niệm chất thải rắn sinh hoạt không phải là bỏ đi mà là một dạng tài nguyên.
Để sử dụng loại tài nguyên, theo ông Hà, có 2 yếu tố tiên quyết là việc phân loại rác từ đầu nguồn và công nghệ xử lý rác không chôn lấp. Tức là từ khâu phân loại thu gom của người dân cho tới khâu xử lý cuối cùng phải đồng bộ.
Bên cạnh đó, Bộ trưởng Bộ Tài nguyên - Môi trường cho biết, dự thảo luật cũng xác định không thu phí thu gom, xử lý rác thải sinh hoạt của người dân theo bình quân mấy ngàn đồng một hộ nữa mà thu theo khối lượng, theo kilogam. “Tức là thải ra nhiều phải chịu nhiều tiền hơn”, ông Hà nói.
Ông Hà cũng giải thích, trước mắt và hiện tại, người dân chỉ phải chịu một phần kinh phí thu gom, xử lý rác thải sinh hoạt, nhà nước sẽ chi trả phần chính. Tuy nhiên, khi đời sống người dân tăng lên, sẽ điều chỉnh dần dần để người dân trả cả chi phí này.
Theo dự thảo luật trình ra Quốc hội, chất thải rắn sinh hoạt từ hộ gia đình, cá nhân được phân thành 4 loại: chất thải rắn có khả năng tái chế; chất thải thực phẩm; chất thải cồng kềnh; và chất thải rắn sinh hoạt thông thường khác.
Hộ gia đình, cá nhân có phát sinh chất thải rắn sinh hoạt phải thực hiện phân loại chất thải rắn sinh hoạt theo quy định, đồng thời có trách nhiệm chi trả một phần kinh phí thu gom, vận chuyển và xử lý chất thải rắn sinh hoạt theo khối lượng phát sinh; phần kinh phí còn lại được ngân sách nhà nước hỗ trợ theo quy định của Chính phủ. Các loại chất thải rắn có khả năng tái chế được phân loại đúng quy định được miễn nộp kinh phí thu gom, vận chuyển và xử lý.
Kinh phí thu gom, vận chuyển và xử lý chất thải thực phẩm và chất thải rắn sinh hoạt thông thường khác phát sinh từ hộ gia đình, cá nhân ở các đô thị được thu thông qua giá bán bao bì, thiết bị chứa chất thải, và phải bảo đảm tối thiểu 20% chi phí cho công tác thu gom, vận chuyển và xử lý.
Huy Đức (tổng hợp)