Nguồn gốc của chè cổ thụ Việt Nam
Chè cổ thụ Việt Nam có lịch sử lâu đời, được tìm thấy và sử dụng từ hàng trăm năm trước, gắn liền với đời sống của đồng bào dân tộc vùng cao. Những cây chè shan tuyết cổ thụ cao lớn, thường có chiều cao khoảng 2-10m; mọc ở vùng núi có độ cao khoảng 1.300 – 2.7000m so với mặt nước biển. Chúng được tìm thấy nhiều nhất tại các tỉnh như Hà Giang, Yên Bái, Sơn La, Điện Biên, Lai Châu. Người dân tộc Dao, H’Mông, Tày, Nùng từ bao đời nay đã gắn bó với những cây chè cổ thụ, coi đây như một phần không thể thiếu trong đời sống văn hóa và sinh kế.
Chè cổ thụ mang đến hương vị đặc trưng mà không loại trà nào khác có thể sánh bằng: Hương gỗ, mộc mạc nhưng tinh tế, vị chát dịu ban đầu, hậu ngọt sâu lắng và đọng lại một lớp hương thanh tao, bền lâu. Lá chè cổ thụ thường to bản, dày dặn, nguyên cánh, cong nhẹ, giòn vừa có lớp lông tơ mịn màu trắng bạc, đặc trưng của dòng trà shan tuyết. Khi cầm trên tay, người ta có thể cảm nhận được sự cứng cáp của từng búp chè. Mỗi năm chỉ có vụ xuân là cho là vị trà đậm đà và đượm vị nhất. Bởi trước khi mùa xuân đến, cây chè phải trải qua một mùa đông khắc nghiệt, có khi còn xuất hiện cả băng tuyết, sương muối bao phủ, cây chè phải gồng mình mọc mốc trắng để ủ ấp lấy búp chè. Chính vì vậy, sau khi trải qua một mùa đông, tuyết còn vương trên từng búp chè, những gì tinh túy nhất của đất trời cây đã được lưu giữ chờ bước vào vụ xuân. Khi hái chè, tùy vào mục đích người hái có thể thu hoạch theo cách hái một tôm, một tôm một lá, một tôm hai lá,... Người hái thường là người phụ nữ, bởi theo quan niệm của dân gian, phụ nữ mang trong mình sự nhẹ nhàng, khéo léo, tinh khôi lúc hái sẽ giữ cho búp chè được hoàn hảo nhất.
Chè sau khi chế biến có thể được làm thành nhiều chủng loại khác nhau như: Lục trà Shan Tuyết, Hồng trà Shan tuyết, Bạch trà Shan tuyết và Hoàng Trà Shan tuyết, mỗi loại mang một hương vị riêng biệt, phù hợp với nhiều sở thích của người thưởng trà. Trong đó, lục trà hay còn gọi là trà xanh, vì chưa trải qua quá trình oxi hóa nên nước trà có màu xanh nhạt hoặc vàng nhẹ, vị gần giống với chè tươi, pha lẫn chút đắng, chát, ở hậu vị ngọt giúp cân bằng thế trà. Hồng trà là loại trà đã được oxi hóa hoàn toàn, ủ lên men, nước trà có màu hổ phách, nâu nhẹ; dư vị ngọt, ít chát. Cao cấp hơn thì phải kể đến dòng bạch trà và hoàng trà. Đây là hai loại trà được lựa chọn khắt khe, là phần ngon nhất của cây chè với lớp lông tơ tuyết trắng phủ ngoài, quy trình xử lý kỹ càng, chế biến thủ công vô cùng phức tạp. Nước trà trong, sóng sánh nhẹ, hậu vị ngọt sâu, thanh mát và đặc biệt rất tốt đối với sức khỏe.
Xây dựng thương hiệu trà cổ thụ Việt Nam, góp phần đa dạng hóa các thành phẩm
Mặc dù chè cổ thụ mọc hoang dã, nhưng hiện nay nhiều địa phương đã khai thác hợp lý để biến loại trà quý này thành sản phẩm thương mại có giá trị cao. Các vùng trồng thương mại lớn tập trung ở Suối Giàng (Yên Bái), Tà Xùa (Sơn La), Phìn Hồ (Hà Giang), Mộc Châu (Sơn La) và Hoàng Su Phì (Hà Giang). Những vùng này có khí hậu mát mẻ quanh năm, lượng mưa dồi dào, tạo điều kiện thuận lợi để trà phát triển tự nhiên mà không cần sự can thiệp của con người. Chỉ riêng toàn tỉnh Hà Giang có 20.296 ha chè. Trong đó, diện tích chè Shan tuyết chiếm 90,28% diện tích chè toàn tỉnh. Ước tính năm 2022, giá trị sản xuất ngành chè đem lại đạt trên 650 tỷ đồng (theo giá hiện hành), chiếm khoảng 10% giá trị của ngành trồng trọt.
Những năm gần đây, ngành công nghiệp chè cổ thụ tại Việt Nam đã có bước phát triển đáng kể nhờ vào việc nâng cao kỹ thuật thu hoạch, chế biến và xây dựng thương hiệu. Một số doanh nghiệp và hợp tác xã, thương hiệu trà lớn như Shanam, Trà Việt, trà Shan tuyết, trà sen Tây Hồ, Vinatea,... đã xuất hiện trên thị trường quốc tế, đầu tư vào sản xuất trà hữu cơ, đóng gói chuyên nghiệp, kể câu chuyện về nguồn gốc, vùng trồng và giá trị của chè, đạt các chứng nhận quốc tế như OCOP, Organic EU đưa sản phẩm trà cổ thụ đến với các thị trường khó tính như Nhật Bản, châu Âu và Mỹ giúp chè cổ thụ Việt Nam có chỗ đứng vững chắc trên thị trường quốc tế.
Các biện pháp để bảo tồn, gìn giữ và phát huy các giá trị của giống chè cổ thụ Việt Nam
Để bảo tồn và phát huy giống chè cổ thụ, cần nghiên cứu, quy hoạch diện tích chè cổ thụ đầu dòng phục vụ cho việc nhân giống và chiết cành trong công tác bảo tồn. Đối với những cây chè hiện có cần chú trọng bảo vệ và khai thác đúng mức. Thu hút và khuyến khích hành động chung tay của chính quyền, người dân, doanh nghiệp và các nhà khoa học trong công tác bảo tồn, nhân giống chè Shan tuyết. Ưu tiên giao cho các hộ dân, thôn bản quản lý các diện tích bảo tồn chè, vừa là cơ hội để nâng cao nhận thức, vừa tạo thu nhập và có thể gắn với việc phát triển du lịch cộng đồng, du lịch sinh thái tại địa phương,...Ngoài ra, để phát triển bền vững, cần có sự phối hợp giữa chính quyền địa phương, doanh nghiệp và người dân để bảo vệ rừng chè cổ thụ, tránh tình trạng khai thác quá mức. Vận động người dân chăm sóc, thu hái, sao chế, bảo quản đúng quy trình kỹ thuật; không sử dụng phân bón hóa học và thuốc diệt cỏ làm mất đi giá trị của cây chè. Chỉ khi gìn giữ được nguồn tài nguyên quý giá này, trà cổ thụ Việt Nam mới có thể vươn xa trên thị trường thế giới.
Dương Diệu