“Cây sắn tiến công” - Ký ức một thời nuôi quân, giữ nước

Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, cùng với gạo, ngô, khoai, cây sắn đã trở thành nguồn lương thực quý giá, góp phần nuôi bộ đội bám trụ chiến trường. Hình ảnh giản dị ấy được nhạc sĩ Trần Bảng khắc họa trong ca khúc “Cây sắn tiến công”, với giai điệu vui tươi, đồng ca, gợi nhớ cả một thời gian khó nhưng anh hùng của dân tộc.

Ca khúc mang nội dung giản dị, kể câu chuyện về sức sống phi thường của cây sắn – loài cây dân dã đã góp phần nuôi dưỡng bộ đội, tiếp sức cho cuộc kháng chiến giành độc lập, tự do cho dân tộc. Với giai điệu vui tươi, mang âm hưởng đồng ca, bài hát gợi nhớ một thời đạn bom gian khổ nhưng anh dũng, tự hào về thế hệ “Bộ đội Cụ Hồ” kiêu hãnh.

 “Cây sắn tiến công” - Ký ức một thời nuôi quân, giữ nước - Ảnh 1

Biết bao thế hệ người Việt đã sinh ra và lớn lên bằng bầu sữa mẹ, rồi đến cơm, gạo, ngô, khoai, sắn, rau củ quả… tất cả đều rất thiên nhiên. Trong đó, sắn là một trong những loại cây cho củ từng có thời gian dài giữ vai trò là lương thực chính sau gạo. Những năm tháng thiếu lúa gạo, thời bao cấp, mọi người phải ăn độn: cơm độn sắn (miền Nam gọi là củ mỳ), cơm độn khoai, độn mỳ sợi, thậm chí đủ thứ khác… miễn sao no cái bụng.

Sắn là cây dễ trồng, ngắn ngày đã cho củ, lượng tinh bột cao, dễ chế biến để thành các món dễ ăn, dễ dùng, phù hợp với nhiều hoàn cảnh kinh tế của số đông. Ai quê miền trung du, rừng cọ, đồi chè đều hiểu rõ về cây sắn. Thường có hai loại, sắn ta, là cho người ăn hàng ngày, được trồng rất nhiều. Loại nữa là sắn dù, có chất gây hại người nên chỉ dành cho chăn nuôi, người ta trồng rất ít. Thế kỷ trước, củ sắn, sau khi bóc vỏ thường được luộc ăn thay cơm (nếu thiếu gạo). Trong những năm tháng đánh Mỹ, chiến tranh ác liệt, chiến trường phân tán, địa hình chia cắt, bộ đội đóng quân lâu ngày trong rừng sâu, núi thẳm, hậu cần thiếu thốn, không vận chuyển kịp lương thực ứng tiếp, phải thực hiện phương châm cứu mình tại chỗ. Trồng sắn để nuôi quân thành công, đã trở thành phong trào “cây sắn tiến công” trong toàn quân. Nhờ có sắn mà bộ đội không bị đói, cầm cự để chiến đấu dài ngày trong hoàn cảnh khắc nghiệt của chiến trường.

 “Cây sắn tiến công” - Ký ức một thời nuôi quân, giữ nước - Ảnh 2

Nhờ bàn tay khéo léo, sáng tạo chịu thương chịu khó của bao người phụ nữ, nội trợ, làm mẹ, làm vợ, nhất là nơi thôn quê mà có được các món ăn từ sắn đầy ngẫu hứng, hấp dẫn, ấn tượng với bao người: xôi sắn (sắn tươi thái vát, trộn đều với gạo nếp rồi đồ lên) cho chút hành tươi chao mỡ trên bát xôi. Sắn tươi chặt từng miếng phơi khô, giã thành bột sắn khô, sàng lấy bột thô làm bánh sắn. Bột khô trộn với nước ấm sẽ cho cục bột, nắm thành từng nắm vừa lòng bàn tay. Trộn thịt ba chỉ băm hoặc xay nhuyễn với hành tươi làm nhân đúc trong lòng bánh. Bọc lá chuối tươi từng chiếc bánh (hình như con chuột bàn phím) xếp thành từng nếp trong nồi đồ xôi, đồ lên, thấy nước bay hơi ra miệng chõ (nồi) khoảng 1 giờ, lấy bánh ăn thử là biết.

Bột sắn đã từng làm ra kẹo, làm ra mì chính, làm thành bánh trôi tàu, bánh sắn rán mặn, ngọt; canh sắn nấu với con trai, con hến cho chút rau thì là, ăn tuyệt lắm...Kể ra thì có đến vài chục món ăn các loại từ sắn được nhiều người thưởng thức vô cùng thích thú, không kém ngạc nhiên. Chế biến sắn theo lối thủ công cho ta món ăn thường ngon hơn làm kiểu công nghệ, vì có sự tinh tế qua nghệ thuật, hơi ấm bàn tay, chứa chan tình cảm người làm như “gửi cả tâm tình vào từng sản phẩm”. Nay nhu cầu thiêu thụ tăng, người làm bánh dùng máy nghiền ra bột sắn tinh, trong suốt, nhân bánh làm bằng thịt cùng rất nhiều gia vị khác, theo kiểu sáng tác “hiện đại” bằng công nghệ 4.0 nên ăn vào không thấy còn vị bánh sắn cổ. Nghĩ mà tiếc, nhưng người thế kỷ nào phải theo trend thời đại ấy chứ!

Lại nói tiếp, sau khi thu hoạch củ, thân cây sắn có thể cắt thành khúc dài khoảng 1 gang tay, râm mọc rễ để mang trồng cho vụ mới; thân cây sắn có thể cắm xuống đất để làm thành hàng rào (rậu) nhưng mục đích cho ra những búp non mọc ở nách thân cây. Người ta sẽ hái cái búp non ấy để làm dưa sắn muối, được nắm thành từng nắm như quả soài, cho vào vại, đậy nắp rồi ủ. Khi dưa lên men ngấu, độ chua vừa tới, từng nắm sẽ được vắt nhẹ bớt chút nước chua để nấu với nhiều loại cá, nhưng với cá chuối, cá trê đồng là hợp nhất. Muốn ngậy, ngọt thì dã chút lạc củ cho vào. Ngon hay không bạn cứ làm theo công thức của tôi nhé!

Mỗi dịp về miền Trung du, tôi lại như vẳng nghe đâu đó lời thơ: “Phú Thọ, rừng cọ đồi chè, đồng xanh ngào ngạt. Nắng cháy sông Lô, hò dô tiếng hát. Bến phà dào dạt, tiếng hát Bình Ca. Ai qua Phú Thọ, ai xuôi Trung Hà. Ai vào khu Bốn, ai xuống khu Ba...” Hãy mãi giữ những kỷ niệm đẹp ấy của bao thế hệ người Việt trong công cuộc sắp xếp lại giang sơn.

VĂN HÙNG

Từ khóa: