Trong bức tranh nông nghiệp chuyển mình mạnh mẽ dưới tác động của biến đổi khí hậu, yêu cầu ngày càng cao từ thị trường và người tiêu dùng, nông nghiệp hữu cơ không còn là xu hướng mới mẻ, mà đang trở thành “hướng đi tất yếu”. Tại miền núi phía Bắc nơi hội tụ những vùng chè nổi tiếng như Hà Giang, Thái Nguyên, Nghệ An cây chè không chỉ là sinh kế mà còn là di sản văn hóa, là niềm tự hào nông sản. Việc đưa cây chè vào lộ trình sản xuất hữu cơ chính là một bước chuyển quan trọng, nhằm kiến tạo một nền nông nghiệp xanh, sạch, phát triển bền vững từ gốc rễ.
Khi đất và người cùng “xanh hóa”
Không giống với những sản phẩm nông nghiệp ngắn ngày, cây chè gắn bó lâu dài với đất và người. Ở miền núi phía Bắc, chè mọc trên triền núi cao, nơi đất đai cằn cỗi nhưng giàu dinh dưỡng, khí hậu mát mẻ quanh năm. Thổ nhưỡng và độ cao đã tạo nên những dòng chè đặc biệt như Shan Tuyết Hà Giang, chè Tân Cương Thái Nguyên hay chè ô long Nghệ An. Tuy nhiên, trong một thời gian dài, việc chạy theo sản lượng đã dẫn đến lạm dụng phân bón hóa học và thuốc bảo vệ thực vật, khiến chất lượng đất suy giảm, ảnh hưởng đến an toàn thực phẩm, kéo theo hệ lụy về giá bán và thị trường tiêu thụ.
Người dân xã Nậm Ty (Hoàng Su Phì) thu hái chè Shan tuyết.
Chính từ thực tế đó, nhiều địa phương bắt đầu nhìn nhận lại giá trị cốt lõi của sản xuất nông nghiệp không chỉ là “nuôi sống” mà còn phải “nuôi dưỡng” nuôi dưỡng đất, bảo vệ môi trường và nâng cao sức khỏe cộng đồng. Chè hữu cơ không đơn giản là việc “không dùng hóa chất” mà là một hệ sinh thái sản xuất bền vững, đòi hỏi người nông dân thay đổi cả tư duy canh tác và phương pháp chăm sóc.
Hà Giang: Gieo mầm hữu cơ trên vùng chè Shan Tuyết
Là vùng cao nguyên đá nổi tiếng với chè Shan Tuyết cổ thụ, Hà Giang sớm nhìn ra lợi thế phát triển nông nghiệp hữu cơ nhờ điều kiện tự nhiên thuận lợi. Tỉnh đã ban hành Đề án “Phát triển nông nghiệp hữu cơ đến năm 2025, định hướng đến 2030”, xác định rõ vùng trồng chè Shan Tuyết là một trong những vùng trọng điểm.
Tính đến năm 2024, toàn tỉnh có hơn 1.200ha chè Shan Tuyết được chứng nhận hữu cơ. Tuy con số này chưa chiếm tỷ trọng lớn trong tổng diện tích chè nhưng thể hiện nỗ lực rất đáng ghi nhận. Một số hợp tác xã và tổ nhóm sản xuất đã chủ động chuyển đổi, áp dụng các phương thức chăm sóc bằng phân hữu cơ, thuốc sinh học, không sử dụng chất kích thích sinh trưởng. Tuy nhiên, khó khăn vẫn còn: chi phí chứng nhận cao, quy trình phức tạp, người dân thiếu kiến thức và phụ thuộc vào hỗ trợ từ Nhà nước. Việc hình thành chuỗi liên kết tiêu thụ sản phẩm hữu cơ cũng còn yếu, khiến nhiều nông dân “chùn bước”.
Thái Nguyên: Khi người làm chè “đứng lên” làm chủ hướng đi mới
Là “thủ phủ chè” của cả nước, Thái Nguyên có gần 22.000ha chè, trong đó huyện Định Hóa là một trong những vùng chè trọng điểm. Trong những năm gần đây, người dân nơi đây bắt đầu chuyển mình từ tư duy “trồng cho nhiều” sang “trồng cho sạch”. Nhiều hợp tác xã như Bình Minh (xã Phú Đình), Phú Hội (xã Sơn Phú) đã tiên phong thí điểm trồng chè hữu cơ trên diện tích nhỏ, sau đó nhân rộng nhờ hiệu quả rõ rệt.
Vườn chè của HTX chè Tiến Yên, xã Tân Cương (TP. Thái Nguyên) được canh tác theo hướng hữu cơ, góp phần bảo vệ sức khỏe cho cả người trồng lẫn người tiêu dùng.
Ông Nguyễn Văn Thủy, Giám đốc HTX Bình Minh, chia sẻ rằng sau 2 năm chuyển sang canh tác hữu cơ, HTX giảm được chi phí vật tư, môi trường đất cải thiện, sinh vật có lợi phát triển, cây chè khỏe hơn và chất lượng búp ngon hơn. Không chỉ vậy, giá bán chè hữu cơ cao gấp 1,5–2 lần chè thường, sản phẩm được người tiêu dùng đón nhận tích cực.
Tuy nhiên, khó khăn ở Định Hóa cũng phản ánh vấn đề chung: quy mô còn nhỏ, sản xuất hữu cơ đòi hỏi thay đổi thói quen, đầu tư về kiến thức và kỹ thuật, trong khi thương hiệu chè hữu cơ chưa thật sự được định vị rõ ràng. Để khắc phục, địa phương đã tranh thủ nguồn lực từ các chương trình mục tiêu quốc gia, hỗ trợ HTX bao bì, tem mác, tập huấn kỹ thuật và định hướng xây dựng thương hiệu chè hữu cơ mang bản sắc riêng.
Nghệ An: Từ mô hình thí điểm đến chuỗi liên kết giá trị
Tại miền Tây Nghệ An, nơi có điều kiện tự nhiên lý tưởng cho cây chè ô long, Trung tâm Khuyến nông Quốc gia đã triển khai dự án xây dựng mô hình chè hữu cơ tại xã Bình Sơn, huyện Anh Sơn từ năm 2022. Dự án không chỉ hỗ trợ kỹ thuật, phân bón hữu cơ, thuốc thảo mộc mà còn giúp người dân thay đổi toàn diện tư duy sản xuất từ việc chuyển sang hái tay để nâng cao chất lượng búp, đến việc học cách ủ đạm cá, phân hữu cơ vi sinh tại nhà.
Hiệu quả thấy rõ sau gần 3 năm: năng suất chè hữu cơ không hề thấp hơn chè thường, đất đai phục hồi, môi trường sống trong lành hơn, đặc biệt là giá chè tăng từ 70–100% so với trước. Quan trọng hơn, một Hợp tác xã chè hữu cơ đã được thành lập, ký hợp đồng tiêu thụ ổn định với doanh nghiệp chế biến chè, với mức giá cam kết cao hơn thị trường.
Mô hình chè hữu cơ tại Thôn Tân Hợp, xã Bình Sơn, huyện Anh Sơn.
Hữu cơ không chỉ là xu thế, đó là tương lai
Từ thực tế của Hà Giang, Thái Nguyên, Nghệ An có thể thấy rằng, dù còn nhiều khó khăn, nhưng sản xuất chè hữu cơ đang tạo ra những hiệu ứng tích cực từ môi trường đến thu nhập. Điều quan trọng là các cấp chính quyền cần tiếp tục hỗ trợ bằng chính sách cụ thể: hỗ trợ chứng nhận, tiếp cận tín dụng ưu đãi, đào tạo kỹ thuật, đồng thời kết nối thị trường và xây dựng thương hiệu chè hữu cơ Việt.
Bên cạnh đó, cần đẩy mạnh ứng dụng công nghệ số trong truy xuất nguồn gốc, giám sát quá trình sản xuất và kết nối với người tiêu dùng. Chỉ khi người mua hiểu được giá trị của sản phẩm hữu cơ sạch từ gốc, minh bạch từ quy trình thì sản phẩm mới thực sự có chỗ đứng trên thị trường.
Chè hữu cơ không chỉ đơn thuần là một phương thức sản xuất mới mà còn là lời khẳng định về giá trị của đất, của người và của sự bền vững trong nông nghiệp. Ở miền núi phía Bắc, nơi đất đai vẫn còn độ “sạch” tự nhiên, nơi con người vẫn giữ được sự gắn bó sâu sắc với cây chè, đây chính là cơ hội vàng để khẳng định thương hiệu chè Việt Nam bằng con đường hữu cơ con đường đi xa, nhưng đầy triển vọng. Sự lựa chọn hôm nay chính là lời đầu tư cho tương lai xanh, sạch và bền vững của nông nghiệp vùng cao.