“Nút thắt” cũ nhưng chưa thể gỡ
Hơn 100 quốc gia và vùng lãnh thổ đang tiêu thụ chè Việt Nam, con số đưa chúng ta vào nhóm 5 nước xuất khẩu chè lớn nhất thế giới. Vị thế ấy cho thấy năng lực sản xuất, mạng lưới thị trường và sức cạnh tranh về quy mô của chè Việt đã được khẳng định. Thế nhưng đằng sau bức tranh ấn tượng là một “độ vênh” đáng suy nghĩ: giá chè xuất khẩu của Việt Nam chỉ đạt khoảng 65% mức bình quân toàn cầu và bằng 55% giá xuất khẩu của Ấn Độ và Sri Lanka – hai cường quốc chè hàng đầu. Khoảng cách này không chỉ là câu chuyện giá bán; đó là tín hiệu cho thấy giá trị gia tăng của chè Việt trên thị trường quốc tế còn khiêm tốn.
Nguyên nhân của thực trạng này, theo các chuyên gia, vẫn là “nút thắt” quen thuộc: phần lớn sản phẩm của Việt Nam rời khỏi nhà máy ở dạng nguyên liệu thô; tỷ lệ chế biến sâu còn thấp; bao bì, thiết kế chưa thực sự cuốn hút; và thương hiệu chưa đủ sức cạnh tranh bền vững trên kệ hàng quốc tế. Khi sản phẩm chưa thể bước vào phân khúc có biên lợi nhuận cao, giá bình quân xuất khẩu khó mà vượt lên.
Từ góc độ quản lý, ông Nguyễn Quý Dương, Phó Cục trưởng Cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật (Bộ Nông nghiệp và Môi trường), nhấn mạnh mũi đột phá nằm ở chuẩn chất lượng và hữu cơ: “Nếu Việt Nam sản xuất được trà an toàn và trà hữu cơ, tiềm năng xuất khẩu sẽ còn rất lớn. Hiện nay, giá trà xuất khẩu của chúng ta khá thấp, chỉ khoảng 1,4–1,7 USD/kg, trong khi giá trà trong nước dao động 7–10 USD/kg, thậm chí một số loại trà đặc sản có giá hàng triệu đồng/kg. Rõ ràng, dư địa để tăng giá trị xuất khẩu trà là rất lớn.”
Những con số chênh lệch ấy cho thấy thị trường sẵn sàng trả giá cao cho các sản phẩm đạt chuẩn, có câu chuyện, có thương hiệu, vấn đề là chúng ta có cung ứng được đúng “định dạng” mà thị trường cần hay không.
Dịch chuyển cấu trúc sản phẩm: “Mũi tên” vào phân khúc cao cấp
Đáp ứng chuẩn an toàn - hữu cơ là điều kiện cần, nhưng để cạnh tranh sòng phẳng ở phân khúc cao cấp, ngành chè Việt còn phải dịch chuyển cấu trúc sản phẩm. PGS.TS Nguyễn Văn Toàn, nguyên Viện trưởng Viện Khoa học Kỹ thuật Nông Lâm nghiệp miền núi phía Bắc, chỉ ra chênh lệch giá giữa các dòng sản phẩm là tín hiệu rất rõ: “Giá xuất khẩu bình quân của chè xanh cao gấp 1,53 lần so với chè đen. Do đó, cần tập trung đẩy mạnh sản xuất chè xanh, đặc biệt là chè xanh cao cấp, bằng cách nhanh chóng chuyển đổi sang trồng các giống chè xanh chất lượng cao để xây dựng vùng nguyên liệu ổn định. Đây là vấn đề then chốt, bởi hiện nay chè Việt Nam vẫn chưa thể thâm nhập vào thị trường cao cấp. Nguyên nhân chủ yếu là do chúng ta chưa có vùng nguyên liệu ổn định và chất lượng nguyên liệu còn hạn chế, giá trị chưa cao.”
Thông điệp ở đây rất thẳng thắn: muốn nâng giá, phải tái cấu trúc danh mục theo hướng gia tăng tỷ trọng các sản phẩm có giá trị bình quân cao hơn (như chè xanh cao cấp), đi kèm kiểm soát chất lượng từ giống - canh tác - thu hái - chế biến một cách đồng bộ.
Bài toán nâng giá trị chè Việt không thể giải quyết bằng vài lô hàng đẹp mắt hay vài chiến dịch truyền thông ngắn hạn. Cốt lõi là tổ chức lại toàn bộ chuỗi giá trị, từ đầu vào đến đầu ra, theo tiêu chuẩn quốc tế, để mỗi khâu đều đóng góp vào giá trị gia tăng cuối cùng:
Các chuyên gia cho rằng, trước hết, cần chuyển đổi sang giống chè chất lượng cao, thích ứng với canh tác hữu cơ và xây dựng vùng nguyên liệu đạt chuẩn, tạo sự đồng đều về hương vị, bảo đảm an toàn tồn dư, qua đó làm nền tảng cho hợp đồng dài hạn và định vị thương hiệu theo địa lý. Trong khâu canh tác, áp dụng kỹ thuật tiên tiến, kiểm soát chặt đầu vào, quản trị dư lượng và truy xuất nguồn gốc sẽ giúp chè Việt đáp ứng tiêu chuẩn an toàn - hữu cơ, phù hợp định hướng của cơ quan quản lý.
Ở khâu chế biến, doanh nghiệp nên đầu tư công nghệ hiện đại để sấy, lên men, định hình và tinh chế sản phẩm, đặc biệt là phát triển các dòng cao cấp, sẽ giúp ngành chè bắt kịp biên lợi nhuận hấp dẫn từ thị trường quốc tế. Bao bì cần được thiết kế vừa đẹp mắt vừa bảo quản tốt hương vị, kết hợp với việc kể câu chuyện về xuất xứ - vùng trồng, giống, văn hóa... để thuyết phục người tiêu dùng trả giá cao hơn.
Về thị trường, cần đa dạng hóa kênh phân phối từ hợp đồng B2B dài hạn đến bán lẻ cao cấp, song song chuẩn hóa hồ sơ chất lượng để thâm nhập các thị trường khó tính. Cuối cùng, quản trị hiệu quả chuỗi liên kết giữa nông dân - hợp tác xã - doanh nghiệp chế biến - đơn vị phân phối, với hợp đồng rõ trách nhiệm và cơ chế chia sẻ rủi ro, lợi ích, sẽ giúp duy trì chất lượng ổn định và nâng tầm vị thế chè Việt.
Như PGS.TS Nguyễn Văn Toàn nhấn mạnh, điểm khởi đầu vẫn là giống và phương pháp sản xuất, nhưng động lực bứt phá phải đến từ doanh nghiệp tư nhân: “Doanh nghiệp tư nhân đóng vai trò vô cùng quan trọng trong việc xây dựng chuỗi giá trị hiệu quả. Nếu các doanh nghiệp tư nhân đầu tư vào sản xuất và chế biến các sản phẩm trà cao cấp, xây dựng thương hiệu và phát triển hệ thống thị trường tiêu thụ, ngành chè Việt Nam sẽ có cơ hội phát triển mạnh mẽ và bền vững.”
Cơ hội vàng để rút ngắn khoảng cách giá
Nhìn từ các con số 65% so với trung bình toàn cầu, 55% so với Ấn Độ và Sri Lanka, 1,4 - 1,7 USD/kg giá xuất khẩu đối lập với 7 - 10 USD/kg giá bán nội địa và hàng triệu đồng/kg với một số trà đặc sản, có thể thấy dư địa tăng giá trị là rất lớn. Nhưng dư địa chỉ trở thành giá trị thực nếu chúng ta chuyển hóa được bằng chiến lược sản phẩm và tổ chức chuỗi.
Ngành chè Việt Nam đang đứng trước một cơ hội vàng để thoát khỏi “cái bóng” xuất khẩu nguyên liệu giá rẻ, tiến tới khẳng định vị thế bằng những sản phẩm thương hiệu cao cấp. Nếu các giải pháp từ giống, kỹ thuật, chế biến, liên kết chuỗi đến chiến lược thương hiệu được thực hiện đồng bộ, Việt Nam hoàn toàn có thể gia nhập nhóm quốc gia xuất khẩu chè cao cấp hàng đầu thế giới.
Khi đó, mỗi chén trà Việt sẽ không chỉ đượm hương núi rừng, mà còn mang theo thông điệp về một nền nông nghiệp hiện đại, bền vững và giàu bản sắc, xứng đáng là đại sứ văn hóa của đất nước trên bàn trà quốc tế.