Chè xanh: “Mỏ vàng” giá trị cao mà Việt Nam chưa khai thác hết

Chè xanh Việt Nam, kho báu nông sản với giá trị sinh học phong phú, đang chờ được khai thác đúng tiềm năng. Với truyền thống lâu đời, gen chè quý hiếm và điều kiện thổ nhưỡng đặc biệt, Việt Nam hoàn toàn có cơ hội biến chè xanh thành sản phẩm cao cấp, cạnh tranh trên thị trường toàn cầu.

Trong bản đồ nông sản thế giới, ít có ngành hàng nào mang trong mình sự giao thoa đặc biệt giữa văn hóa, khoa học và kinh tế như chè xanh. Thế nhưng, giữa thời đại mà người tiêu dùng toàn cầu ngày càng hướng tới sản phẩm tự nhiên, tốt cho sức khỏe và có câu chuyện nguồn gốc rõ ràng, chè xanh Việt Nam với chiều sâu truyền thống và tiềm năng sinh học phong phú, vẫn chưa bứt phá tương xứng. Nhiều chuyên gia gọi đây là “mỏ vàng chưa khai thác hết”, và thực tế thị trường đang cho thấy nhận định ấy hoàn toàn có cơ sở.

Việt Nam hiện nằm trong nhóm những quốc gia xuất khẩu chè lớn nhất thế giới. Anhe minh họa
Việt Nam hiện nằm trong nhóm những quốc gia xuất khẩu chè lớn nhất thế giới. Ảnh minh họa

Việt Nam hiện nằm trong nhóm những quốc gia xuất khẩu chè lớn nhất thế giới, nhưng phần lớn giá trị thu về vẫn ở mức thấp so với tiềm lực. Điều nghịch lý này xuất phát từ khoảng cách giữa giá trị thực sự của chè và cách mà chúng ta đưa nó ra thị trường. Vùng chè Tân Cương (Thái Nguyên) sở hữu điều kiện thổ nhưỡng đặc biệt với hàm lượng silic cao giúp lá chè dày, vị đậm và hậu ngọt sâu. Chè Shan tuyết cổ thụ ở Hà Giang (Tuyên Quang), Suối Giàng (Lào Cai), Pà Cò ( Phú Thọ),… lại giàu catechin và các polyphenol chống oxy hóa, những hoạt chất mà ngành thực phẩm, dược phẩm thế giới đang săn đón. Nếu được chế biến, tiêu chuẩn hóa và kể câu chuyện đúng cách, những đặc sản này hoàn toàn có khả năng bước vào phân khúc cao cấp, cạnh tranh trực tiếp với Nhật Bản, Trung Quốc hay Sri Lanka.

Trong bối cảnh toàn cầu hóa, nhu cầu về sản phẩm gắn với sức khỏe tăng mạnh. Theo nhiều nghiên cứu, catechin trong chè xanh, đặc biệt là EGCG, có tác dụng hỗ trợ chống lão hóa, giảm căng thẳng oxy hóa và tăng cường chuyển hóa năng lượng. Đây là lý do matcha Nhật Bản trở thành hiện tượng toàn cầu: không chỉ vì hương vị, mà bởi cách quốc gia này “định nghĩa lại” việc uống chè thành một phong cách sống lành mạnh. Nếu nhìn rộng ra, Việt Nam có đầy đủ điều kiện để phát triển một hệ sinh thái giá trị tương tự, từ sản phẩm truyền thống đến dòng thức uống tiện lợi, thực phẩm bổ sung chiết xuất từ chè, hay nguyên liệu cho ngành mỹ phẩm thiên nhiên.

Điểm nghẽn lớn nhất của chè xanh Việt Nam không nằm ở chất lượng, mà ở chiến lược thị trường và tiêu chuẩn hóa quy trình. Nhiều doanh nghiệp nhỏ lẻ vẫn duy trì mô hình sản xuất manh mún, thiếu đầu tư công nghệ, khiến chất lượng sản phẩm không đồng nhất. Xuất khẩu chủ yếu ở dạng thô hoặc bán thành phẩm với thương hiệu nước ngoài khiến giá trị gia tăng rơi vào tay nhà phân phối. Trong khi đó, người trồng chè chưa được tiếp cận đầy đủ với các quy trình canh tác bền vững như VietGAP hay hữu cơ, làm giảm lợi thế cạnh tranh khi bước vào những thị trường khó tính như EU hay Bắc Mỹ.

Để biến “mỏ vàng” chè xanh thành động lực tăng trưởng, Việt Nam cần chuyển dịch từ tư duy sản lượng sang tư duy giá trị. Trước hết, việc đầu tư vào khoa học công nghệ là bắt buộc. Các nhà máy cần áp dụng quy trình kiểm soát nhiệt, giảm oxy hóa và giữ nguyên hàm lượng hoạt chất sinh học, yếu tố then chốt quyết định chất lượng chè xanh cao cấp. Công nghệ sấy lạnh, nghiền mịn bằng khí nén hay trích ly phân tử có thể giúp chè Việt Nam tạo ra các dòng sản phẩm giá trị cao như matcha, bột trà hòa tan, tinh chất EGCG phục vụ ngành dược, mỹ phẩm.

Song song đó, cần xây dựng các vùng nguyên liệu đạt chuẩn. Việc phát triển chỉ dẫn địa lý, bảo tồn gen chè cổ thụ và hoàn thiện hệ thống truy xuất nguồn gốc số hóa không chỉ giúp tăng giá trị sản phẩm mà còn tạo niềm tin cho nhà nhập khẩu quốc tế. Những quốc gia thành công trong ngành chè đều làm rất tốt khâu này, họ không chỉ bán một gói trà, mà bán trải nghiệm, niềm tin và bản sắc văn hóa.

Một chiến lược thương hiệu bài bản cũng đóng vai trò quyết định. Thị trường quốc tế không chỉ quan tâm sản phẩm “ngon”, mà còn muốn biết câu chuyện phía sau: vùng chè được canh tác ra sao, người dân địa phương sống như thế nào, những giá trị văn hóa nào gắn liền với sản phẩm. Việt Nam hoàn toàn có thể xây dựng hình ảnh chè xanh dựa trên tinh thần thuần khiết, mộc mạc và giàu triết lý sống, điều đã tồn tại trong văn hóa uống trà của người Việt suốt hàng trăm năm. Từ đó, tạo ra sự khác biệt trên thị trường toàn cầu vốn đã quen với phong cách Nhật Bản và Trung Hoa.

Xu hướng tiêu dùng xanh cũng mở ra cơ hội mới. Các thương hiệu chè hữu cơ, thân thiện môi trường hay thương mại công bằng (Fair Trade) đang tăng trưởng vượt trội tại châu Âu và Bắc Mỹ. Những giá trị này trùng khớp với các vùng chè cổ thụ ở Việt Nam, nơi người dân tộc bản địa thu hái thủ công, canh tác tự nhiên không hóa chất. Việc chuẩn hóa và chứng nhận quốc tế có thể biến chính những phương thức truyền thống ấy thành điểm mạnh thương mại.

Có thể nói, chè xanh Việt Nam đang đứng trước thời điểm “vàng” để chuyển mình. Trong bối cảnh thế giới hướng tới lối sống lành mạnh, truy xuất nguồn gốc và tôn trọng bản sắc địa phương, những gì Việt Nam đang sở hữu, từ nguồn gen quý hiếm, điều kiện khí hậu đặc thù, văn hóa lâu đời đến lực lượng lao động bản địa, đều là những điểm tựa mạnh mẽ. Vấn đề không còn là “Việt Nam có gì?”, mà là “Việt Nam sẽ làm gì để đưa chè xanh lên đúng giá trị?”.

Khi khoa học, thị trường và câu chuyện bản sắc kết hợp, chè xanh Việt Nam hoàn toàn có thể bước ra khỏi vai trò của một nguyên liệu thô để trở thành sản phẩm có sức ảnh hưởng trên bản đồ thương mại toàn cầu. Và khi ấy, “mỏ vàng” này sẽ không chỉ mang lại lợi ích kinh tế, mà còn trở thành biểu tượng văn hóa mới của nông sản Việt Nam trong mắt thế giới.

Hiền Nguyễn

Từ khóa:
#h