Ở quê tôi, trà hay “chè” như cách gọi mộc mạc là thứ không thể thiếu trong đời sống thường ngày.
Ký ức về chè xanh
Tôi sinh ra và lớn lên ở dải đất miền Trung, nơi quanh năm nhiều nắng, lắm mưa, đất cằn cỗi mà lòng người lại mặn mà, bền bỉ. Ở quê tôi, trà hay “chè” như cách gọi mộc mạc là thứ không thể thiếu trong đời sống thường ngày. Sáng sớm, cụ ông cụ bà ngồi bên hiên nhà, bên cạnh là ấm chè xanh nghi ngút khói. Chén chè (trà) mở đầu cho câu chuyện, là sợi dây nối những tấm lòng, là bạn tri kỷ của tuổi già.
Thuở nhỏ, tôi vẫn thường phụ bà hái lá chè tươi mua từ chợ về, rửa sạch rồi nấu trong nồi đất. Nước đầu hơi chát nhưng càng uống càng thấy ngọt. Bà bảo: “Chè cũng như người, phải qua nắng gió, chát rồi mới ngọt được”. Lời dặn giản dị ấy theo tôi suốt những năm tháng rời quê, như một triết lý sống nhỏ mà sâu sắc.
Khi vào đại học ở Đà Lạt, tôi kết thân với nhiều bạn bè quê ở vùng chè Bảo Lộc, Bảo Lâm. Những sáng sớm mờ sương, khi đồi chè còn phủ một lớp sương lạnh, tiếng hái chè xào xạc xen trong gió khiến tôi cảm nhận rõ hơn công sức của người trồng. Mỗi búp chè non là kết tinh của đất, trời và bàn tay người nông dân. Càng sống ở xứ lạnh, tôi càng hiểu hơn vì sao người Việt yêu trà đến thế, bởi mỗi chén trà không chỉ có vị mà còn có hồn.
Trà với tôi không chỉ là thức uống mà là ký ức. Ở đó có hình bóng bà, hình bóng mẹ ngồi hong ấm trà bên bếp lửa, có cha thong thả nhấp chén trà sau buổi làm đồng về, có mùi nắng lẫn trong hương lá non. Mỗi khi xa nhà, chỉ cần ngửi thấy mùi trà ai đó vừa rót là tôi lại thấy lòng mình chùng xuống, như nghe tiếng quê hương vọng về.
Khi vào đại học ở Đà Lạt, tôi kết thân với nhiều bạn bè quê ở vùng chè Bảo Lộc, Bảo Lâm. Những sáng sớm mờ sương, khi đồi chè còn phủ một lớp sương lạnh, tiếng hái chè xào xạc xen trong gió khiến tôi cảm nhận rõ hơn công sức của người trồng.
Giữa ấm trà là một cách sống
Người Việt có câu: “Chén trà là đầu câu chuyện”. Ấy là chân lý giản dị mà sâu xa. Dù là ở quán nước ven đường hay phòng khách sang trọng, ly trà vẫn luôn mở đầu cho sự gắn kết. Trà khiến con người ngồi lại, khiến câu chuyện chậm hơn, lòng người mềm lại.
Tôi từng có những sáng ngồi bên hồ Xuân Hương, giữa sương mờ bảng lảng, nhâm nhi ly trà nóng. Nhìn mặt hồ phẳng lặng, nghe mùi trà tan nhẹ trong hơi nước, tôi nhận ra rằng uống trà, trước hết là để lắng lại. Ở thời buổi mà con người mải mê với công việc, điện thoại và tin tức, đôi khi chỉ cần ngồi bên ấm trà là đủ để tâm trí trở về với bình yên.
Sau khi tốt nghiệp, tôi rời Đà Lạt về Sài Gòn, rồi xuống miền Tây. Những vùng đất ấy mỗi nơi một nếp sống nhưng chén trà vẫn hiện diện như một phần không thể thiếu. Có lẽ chỉ khi xa quê, tôi mới nhận ra trà là sợi dây nối những miền đất và ký ức. Rồi nghề viết báo đưa tôi trở về quê hương miền Trung nắng gió- nơi ký ức chè xanh tuổi nhỏ vẫn vẹn nguyên.
Cơ quan chủ quản của tôi lại ở Hà Nội- vùng đất của văn hóa trà thanh tao và tĩnh tại. Mỗi lần công tác ra Bắc, ghé cơ quan hoặc ngồi cùng đồng nghiệp ở quán trà nhỏ bên bờ hồ, hay các góc phố, tôi lại thấy mình hiểu thêm về cách người Hà Nội uống trà. Ở đó, người ta nâng niu từng chén nước như nâng một phần ký ức. Câu chuyện thường bắt đầu từ chén trà, đi qua thời tiết, công việc, rồi lặng yên khi nước cạn. Uống trà không chỉ để thưởng vị mà còn để đối thoại với bạn bè và cả với… chính mình.
Uống trà không chỉ để thưởng vị mà còn để đối thoại với bạn bè và cả với… chính mình.
Trà dạy con người biết chậm. Nhớ lời bà nói năm xưa, tôi hớp những ngụm trà đầu đầu tiên nghe vị chát, các hớp sau nghe vị ngọt, các hớp cuối thì đọng lại dư vị. Cũng như cuộc đời muốn có hậu vị phải đi qua những phút thử thách. Có lẽ vì thế mà người già thường thích uống trà một mình, như cách trò chuyện với thời gian, với chính mình sau bao thăng trầm.
Người am hiểu trà thường nói đến “đạo trà”. Nhưng tôi nghĩ, cái đạo ấy không chỉ nằm ở cách pha mà nằm trong lòng người thưởng thức. Ở cách ta tôn trọng từng búp lá, từng dòng nước sôi, từng phút tĩnh lặng giữa những bộn bề. Bởi chính trong khoảnh khắc chậm rãi đó, người ta học được sự biết ơn và cân bằng.
Hương trà- hồn Việt
Từ ngàn đời, trà đã đi cùng người Việt, trở thành một phần bản sắc. Ở miền Bắc có trà sen, trà mạn; miền Trung có chè xanh dân dã; miền Nam có trà đá mộc mạc mà thân quen. Mỗi vùng đất, mỗi con người gửi vào chén trà một cách sống, một tâm hồn.
Tôi từng đến những đồi chè bát ngát ở Lâm Đồng. Buổi sớm, sương trắng phủ khắp, những người hái trà đi thành hàng, tay thoăn thoắt mà nhẹ nhàng, sợ làm đau búp non. Hương trà tươi lan nhẹ trong gió, mộc mạc mà thanh khiết. Mỗi khi nhìn cảnh ấy, tôi lại nghĩ để có được một ấm trà ngon, người làm trà phải biết lắng nghe đất trời, phải yêu lao động như yêu chính cuộc sống.
Ngày nay, trà Việt không chỉ là thức uống mà còn là niềm tự hào văn hóa.
Ngày nay, trà Việt không chỉ là thức uống mà còn là niềm tự hào văn hóa. Ở nhiều vùng chè như Bảo Lộc, Tân Cương, Thái Nguyên, Mộc Châu… những người trẻ đang thổi luồng gió mới vào nghề truyền thống. Họ làm trà sạch, trà hữu cơ, kết hợp du lịch trải nghiệm, tổ chức không gian thưởng trà giữa đồi xanh... Du khách đến Việt Nam không chỉ uống trà mà còn được nghe kể câu chuyện về cây chè, về nếp sống thanh nhã, về cách người Việt chọn sự giản dị làm nền cho hạnh phúc.
Trà, theo cách đó đã vượt khỏi vai trò của một thức uống. Nó trở thành một phần của văn hóa Việt, một sợi dây mềm mại nhưng bền chặt gắn kết con người, vùng miền và thời gian.
Tôi còn nhớ, có lần một người bạn bảo: “Giữa thời hiện đại, giữ được thói quen uống trà cũng là giữ lại một phần căn cốt Việt”. Tôi nghĩ, có lẽ đúng. Trong dòng đời vội vã chỉ cần ngồi lại bên ấm trà, nghe tiếng nước reo, ngửi hương lá xanh vừa tráng là lòng người đã lắng dịu. Mỗi chén trà, dù giản dị đến đâu vẫn chứa đựng hương đất, vị người và …. cả sự an yên mà ai cũng đang tìm kiếm./.