Cơ hội và thách thức với tăng trưởng kinh tế Việt Nam trong năm 2025

Dù kinh tế toàn cầu vẫn còn đối mặt với nhiều bất ổn, nhưng quyết tâm giải quyết khó khăn cùng các giải pháp hỗ trợ mạnh mẽ từ Chính phủ, kinh tế Việt Nam năm 2025 sẽ tăng trưởng tích cực, tạo nền tảng vững chắc cho sự phát triển trung và dài hạn.

Trong bối cảnh cả kinh tế thế giới và trong nước vẫn đang đối mặt với rất nhiều khó khăn, thách thức, biến động địa chính trị toàn cầu còn phức tạp, thì đây là một bài toán không dễ giải. Thậm chí, đã có ý kiến cho rằng, mục tiêu này là “quá sức”.

Tuy vậy, theo Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Trần Quốc Phương, vấn đề không phải là quá sức hay không quá sức, mà đã đặt ra thì phải quyết tâm làm. Phấn đấu đạt tăng trưởng 8% trong năm 2025 - năm cuối cùng của Kế hoạch 5 năm 2021-2025 không phải chỉ là cho riêng năm 2025, hay là cho giai đoạn 5 năm 2021-2025, mà quan trọng hơn, còn là bước chuẩn bị cho giai đoạn 2026-2030 và xa hơn, tới năm 2045.

Cơ hội và thách thức với kinh tế Việt Nam trong năm 2025  
Cơ hội và thách thức với kinh tế Việt Nam trong năm 2025  

Khó khăn, thách thức của kinh tế trong nước ảnh hưởng lớn từ kinh tế toàn cầu

Trong báo cáo mới nhất, Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) đã điều chỉnh dự báo tăng trưởng kinh tế toàn cầu năm 2025 giảm 0,1% xuống còn 3,2%, khi thế giới phải đối mặt với nhiều thách thức có thể kéo lùi đà tăng trưởng, từ sự gia tăng bất ổn địa chính trị, đặc biệt là xung đột tại Trung Đông, cho tới việc các quốc gia theo đuổi chính sách bảo hộ các ngành công nghiệp và người lao động trong nước. Trước tình hình này, IMF cũng cho rằng xuất khẩu - động lực chính của nền kinh tế Việt Nam, có thể yếu hơn nếu tăng trưởng toàn cầu không được như kỳ vọng.

Với việc ông Donald Trump tái đắc cử Tổng thống Mỹ, nguy cơ chiến tranh thương mại lan rộng và leo thang đang là rủi ro lớn nhất đối với kinh tế toàn cầu trong năm 2025. Việt Nam có nền kinh tế mở và phụ thuộc lớn vào xuất khẩu và đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), có thể bị ảnh hưởng bởi những biến động từ các nền kinh tế lớn và các thị trường mới nổi. Đơn cử như Mỹ - quốc gia Việt Nam đạt thặng dư thương mại lớn nhất những năm gần đây, có thể đối mặt với tốc độ tăng trưởng kinh tế chậm lại, từ đó làm giảm nhu cầu đối với hàng xuất khẩu của Việt Nam.

Dù đối mặt với sự khó lường từ các chính sách của Tổng thống Donald Trump trong thời gian tới, nhưng nhìn lại quá khứ bốn năm cầm quyền trong nhiệm kỳ đầu của ông Trump, Việt Nam đã là một trong những quốc gia hưởng lợi, thể hiện qua tốc độ tăng trưởng GDP giai đoạn 2017-2019 cao hơn nhiều so với những năm trước đó, trước khi suy yếu trong năm 2020-2021 do ảnh hưởng bởi đại dịch Covid-19. Tuy nhiên, quá khứ không phải bao giờ cũng lặp lại theo cùng một cách, nhất là khi nội tại kinh tế Việt Nam đang gặp không ít khó khăn.

Đầu tiên, dư địa chính sách tiền tệ của Việt Nam hiện có nhiều hạn chế. Với việc đồng đô la Mỹ có thể vẫn duy trì sức mạnh khi Fed hoãn giảm lãi suất và chính sách lôi kéo dòng vốn đầu tư về Mỹ của ông Trump, tỷ giá đô la Mỹ/tiền đồng có thể sẽ chịu áp lực thường trực. Do đó, lãi suất không có nhiều không gian để giảm trở lại, nếu không muốn nói là vẫn chịu áp lực tiếp tục đi lên trong năm 2025, sau khi đã thiết lập xu hướng tăng từ đầu quí 2 năm nay.

Về tăng trưởng tín dụng, hiện quy mô tổng dư nợ trong nền kinh tế đã quá cao so với GDP, ước trên mốc 140% trong năm nay, nên mục tiêu tiếp tục đẩy mạnh tín dụng cũng sẽ có những hạn chế nhất định, nhất là khi nợ xấu và nợ tái cơ cấu vẫn đang không ngừng gia tăng, buộc các ngân hàng phải thận trọng hơn khi cho vay. Ngoài ra, những yếu kém kéo dài của thị trường bất động sản và thị trường trái phiếu doanh nghiệp cũng tác động tiêu cực đến khả năng mở rộng tín dụng của các ngân hàng.

Trong khi đó, chính sách tài khóa vẫn khó phát huy hiệu quả, khi mà các dự án đầu tư công vẫn chậm tiến độ bởi các thủ tục hành chính phức tạp, tâm lý ngại rủi ro, khả năng giám sát và quản lý dự án hạn chế dẫn đến hiệu quả sử dụng vốn kém. Sự chậm trễ trong giải ngân vốn có thể làm chậm lại quá trình phát triển kinh tế, đặc biệt là trong các lĩnh vực cơ sở hạ tầng và công nghệ, nơi cần đầu tư lớn để thúc đẩy tăng trưởng. Ngoài ra, tình trạng này kéo dài cũng ảnh hưởng đến niềm tin của nhà đầu tư khi các dự án không được triển khai kịp thời và hiệu quả.

Có lẽ chính vì nhận thấy những bất cập này, mà đi cùng với việc giao mục tiêu tăng trưởng GDP năm 2025, Quốc hội cũng yêu cầu Chính phủ phải đẩy nhanh giải ngân các dự án đầu tư công ngay từ đầu năm, tăng phân cấp, phân quyền gắn với nâng cao trách nhiệm người đứng đầu, không để đầu tư dàn trải, manh mún. Bên cạnh đó, có lẽ các cơ quan quản lý cần tiếp tục cải cách thủ tục hành chính, đơn giản hóa quy trình phê duyệt và giải ngân vốn đầu tư công, nâng cao năng lực giám sát và quản lý dự án bằng việc áp dụng công nghệ.

Một thách thức lớn khác là áp lực về dân số và lực lượng lao động, khi Việt Nam đang trong giai đoạn chuyển dịch cơ cấu dân số “vàng” sang giai đoạn già hóa, không chỉ dẫn đến suy giảm lực lượng lao động trong độ tuổi lao động, mà còn kéo theo suy giảm năng suất lao động, tăng sức ép lên ngân sách cho an sinh xã hội và tác động trực tiếp đến tăng trưởng kinh tế. Đáng lưu ý, một số thành phố lớn là đầu tàu kinh tế của cả nước đang chứng kiến tỷ lệ sinh ngày càng suy giảm và sự dịch chuyển lao động ngược về các tỉnh, gây ra tình trạng thiếu hụt lao động.

Cuối cùng, những thách thức từ cạnh tranh công nghệ và đổi mới, nguy cơ thiếu hụt năng lượng ảnh hưởng đến thu hút FDI và rủi ro về môi trường và biến đổi khí hậu cũng là những vấn đề mà Việt Nam cần phải hóa giải nếu muốn duy trì tăng trưởng kinh tế cao. Việt Nam hiện là một trong những quốc gia dễ bị tổn thương bởi biến đổi khí hậu, với những ảnh hưởng từ nước biển dâng và thời tiết cực đoan, mà những thiệt hại từ những cơn bão lớn có tần suất ngày càng cao trong thời gian gần đây là minh chứng rõ nhất.

Triển vọng lạc quan cho nền kinh tế Việt Nam trong năm 2025  
Triển vọng lạc quan cho nền kinh tế Việt Nam trong năm 2025  

Triển vọng lạc quan cho nền kinh tế Việt Nam trong năm 2025

Dù vậy, các tổ chức quốc tế vẫn khá lạc quan vào triển vọng kinh tế của Việt Nam. HSBC dự báo GDP Việt Nam năm 2025 tăng 6,5%, duy trì mức cao nhất Đông Nam Á. Ngoài động lực chính từ các doanh nghiệp FDI, động lực tăng trưởng còn lại sẽ chứng kiến sự chuyển dịch từ hoạt động xuất khẩu sang kinh tế nội địa, khi niềm tin tiêu dùng sẽ phục hồi ngày càng nhiều cùng với lạm phát được kiểm soát ở mức thấp.

Theo PGS.TS Đinh Trọng Thịnh (Học viện Tài chính) cho hay, gần đây nền kinh tế Việt Nam đã ghi nhận nhiều chuyển biến tích cực. Kiểm soát kiểm soát kết quả, duy trì ổn định tỷ lệ giá và tăng tốc độ giải ngân vốn đầu tư công đã tạo ra động lực quan trọng thúc đẩy phát triển.

“Nền kinh tế nội địa với sức tiêu dùng ngày càng tăng và tầng lớp trung lưu mở rộng là cơ sở vững chắc cho tăng trưởng vững chắc. Các ngành công nghiệp chế biến, xuất khẩu nông sản và du lịch cũng được kỳ vọng duy trì đà phát triển mạnh mẽ trong năm 2025”, ông Thịnh nhận định.

Mặc dù dù kinh tế toàn cầu tiềm ẩn nhiều bất ổn, Việt Nam vẫn có cơ hội từ sự phục hồi thương mại quốc tế. Chính sách khai thác tiền tệ của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) và xu hướng chuyển dịch chuỗi cung ứng đang tạo điều kiện thuận lợi cho hàng hóa Việt Nam, đặc biệt tại các thị trường lớn như Mỹ và châu Âu (EU). Đồng thời, các Hiệp định thương mại làm thế hệ mới như EVFTA và CPTPP tiếp tục mang lại lợi thế cạnh tranh về thuế quan, mở ra cơ hội xuất khẩu đáng kể cho doanh nghiệp.

PGS.TS Đinh Trọng Thịnh đã đưa ra hai kịch bản nền kinh tế Việt Nam trong năm 2025. Ở trạng thái nghiêm trọng, GDP được dự báo tăng trưởng từ 6,8-7,3%, trong khi xử lý ở nhà Hiệu suất 3,2-3,5%. Trong kịch bản tích cực hơn, GDP có thể đạt từ 7,3-7,8%, với khả năng phát dao động trong khoảng 3,5-3,8%.

Theo ông Thịnh, hai kịch bản này phản ánh tiềm năng của Việt Nam trong công việc duy trì tăng trưởng ổn định, không chấp nhận những sơ thức từ bối cảnh kinh tế toàn cầu. Sự khác biệt giữa hai kịch bản phụ thuộc vào kết quả hỗ trợ chính của các sách hỗ trợ và cách ứng phó với các hoạt động kinh tế trong thời gian tới.

PGS.TS Nguyễn Thường Lạng, chuyên gia kinh tế, đánh giá Việt Nam hiện đang khai thác hiệu quả các động lực tăng trưởng quan trọng. Các yếu tố truyền thống như đầu tư công, đầu tư tư nhân và xuất nhập khẩu tiếp tục được thúc đẩy, đóng vai trò chủ chốt trong việc duy trì sự ổn định kinh tế. Bên bờ đó, các động lực mới đang nổi lên như chuyển đổi số, chuyển đổi xanh và phát triển du lịch đang dần trở thành những yếu tố quan trọng trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.

Ngoài ra, PGS.TS Nguyễn Thường Lạng cũng nhấn mạnh vai trò quan trọng của công việc quản lý phân cấp, giảm bớt thủ tục hành động chính và tạo điều kiện để sẵn có các địa phương phát huy tối đa tiềm năng. Việc khai thác nguồn lực tốt và sáng tạo từ từng khu vực sẽ không chỉ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế mà còn góp phần thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các lĩnh vực.

“Với kịch bản tích cực, GDP Việt Nam có thể tăng trưởng từ 7,5-8% vào năm 2025, một khả năng tăng trưởng đầy đủ triển vọng trong bối cảnh cạnh tranh toàn cầu càng càng gay cấn”, ông Lạng chia sẻ.

Tường Ninh