Sự ra đời của phường mới không chỉ là bước chuyển hành chính mà còn mở ra cơ hội kết nối các không gian văn hóa-lịch sử riêng biệt, đồng thời đặt ra yêu cầu phát triển dựa trên bản sắc ven biển, tôn trọng những giá trị truyền thống đã hình thành qua nhiều thế hệ. Văn hóa ở đây không chỉ là phần hồn mà còn là trụ cột để đô thị ven biển phát triển bền vững và có chiều sâu.
Dọc theo các xóm chài ven biển Sơn Trà như Xóm Bãi Bụt, Xóm Đá Đen, Xóm Gành, cuộc sống của cư dân vẫn giữ nhịp điệu quen thuộc từ nhiều thế hệ.
Nhịp sống ven biển- nơi ký ức gặp hiện đại
Dọc theo các xóm chài ven biển Sơn Trà như Xóm Bãi Bụt, Xóm Đá Đen, Xóm Gành, cuộc sống của cư dân vẫn giữ nhịp điệu quen thuộc từ nhiều thế hệ. Sáng sớm, những chiếc thuyền nhỏ rẽ sóng ra khơi, tiếng sóng vỗ rì rầm cùng những câu nói rôm rả của ngư dân tạo nên bức tranh sinh hoạt đầy nhịp điệu. Trên bãi cát, trẻ em theo chân cha mẹ nhặt cá con, học cách vá lưới, chèo thuyền hay quan sát cách phân loại hải sản, trở thành lớp kế cận vừa học nghề vừa hòa mình với đời sống cộng đồng.
Các làng nghề truyền thống vẫn âm thầm tồn tại, vừa phục vụ sinh kế vừa lưu giữ ký ức chung của cộng đồng. Nghề làm nước mắm, đan lưới, vá thuyền, chế tác ngư cụ… không chỉ đơn thuần là kinh tế mà còn là hồn của làng biển, nơi người già truyền nghề, trẻ em học hỏi và những giá trị văn hóa phi vật thể được duy trì. Người dân Sơn Trà nhấn mạnh rằng chính những công việc tưởng như bình thường hàng ngày ấy lại tạo ra mạch nối giữa quá khứ và hiện tại, giữa đời sống truyền thống và nhu cầu hiện đại.
Lễ hội cầu ngư tại đình Mân Thái và lăng Ông Nam Thọ vẫn được tổ chức đều đặn, với các nghi thức rước thần, tế lễ, hát bả trạo, hòa âm cùng tiếng sóng. Đây không chỉ là hoạt động tâm linh mà còn là dịp cộng đồng thể hiện tinh thần gắn kết, giữ gìn bản sắc văn hóa và truyền lại cho thế hệ trẻ. Những câu chuyện, bài hát, điệu múa trong lễ hội trở thành kho tàng ký ức sống, giúp cư dân trẻ nhận biết nguồn cội và trách nhiệm với biển.
Không gian sống của người dân cũng phản ánh rõ nét đặc trưng văn hóa ven biển. Các khu dân cư hình thành dọc bờ biển, bám theo từng xóm chài, từng bãi cát, khúc lạch hay cửa sông. Tên gọi các khu vực như Xóm Bãi Bụt, Xóm Đá Đen, Xóm Gành… không chỉ là định danh địa lý mà còn là minh chứng sâu sắc của sự gắn bó giữa con người và biển, từng bước hình thành bản sắc vùng đất riêng biệt.
Đỉnh Sơn Trà mây phủ, ôm ấp núi mỗi ngày
tạo nhiều ấn tượng cho du khách khi đến đây.
Ở Nại Hiên Đông, dù là khu tái định cư, cư dân gốc từ các làng biển cũ ven sông Hàn vẫn duy trì nếp sống cộng đồng, từ đình làng, chợ cá đến câu lạc bộ dân vũ, dưỡng sinh. Sự hòa nhập giữa cư dân cũ và mới tạo nên một cộng đồng đa sắc thái nhưng gắn kết, nơi giá trị truyền thống và thói quen hiện đại giao thoa. Các hoạt động sinh hoạt cộng đồng không chỉ giúp dân cư gần gũi nhau mà còn là cầu nối văn hóa, giữ cho nhịp sống truyền thống không bị mai một trước áp lực đô thị hóa.
Những buổi sáng ra khơi, những chiều tối trên bến cá, hay cảnh mẹ già trò chuyện cùng con về cách làm mắm, cách vá lưới… đều là những mảng ký ức sống động. Chúng góp phần tạo nên linh hồn của phường Sơn Trà mới, giúp cư dân nhận thức về giá trị lịch sử của mình và biết trân trọng quá khứ trong quá trình phát triển hiện đại.
Quy hoạch phát triển gắn với bản sắc
Ông Nguyễn Huy Bình, Phó Chủ tịch UBND phường Sơn Trà cho biết, Sơn Trà hiện có nhiều lợi thế phát triển du lịch, dịch vụ và logistics với hệ thống cảng cá Thọ Quang, bãi tắm Mân Thái, chợ hải sản truyền thống và tuyến du lịch đường biển trọng điểm. Tuy nhiên, áp lực đô thị hóa và khan hiếm đất ven biển khiến văn hóa truyền thống đứng trước nguy cơ bị lấn át. Nhiều thiết chế văn hóa như đình làng, lăng thờ, chợ cá chưa được bảo tồn bài bản; không gian sinh hoạt cộng đồng ngày càng thu hẹp; nghệ thuật dân gian như hát bả trạo dần thiếu người kế tục; nghề truyền thống thiếu lực lượng trẻ kế thừa; lớp trẻ ít gắn bó với nghề biển truyền thống.
Ông Dương Văn Thu, cư dân Tổ dân phố 85N, Sơn Trà, nhấn mạnh rằng kinh tế thị trường khiến nhiều thanh niên rời làng biển, bỏ nghề đánh bắt để theo các ngành nghề khác, dẫn đến văn hóa biển tại Sơn Trà mai một, lai tạp.
Để bảo tồn và phát triển bền vững, ông Nguyễn Huy Bình cho rằng phường cần tư duy lại chiến lược phát triển: không chỉ mở đường, xây nhà hay chỉnh trang bãi biển mà phải phát triển có văn hóa, tôn trọng ký ức cộng đồng. Quy hoạch đô thị phải đặt các thiết chế văn hóa vào đúng vị trí, xem chúng là cấu phần chính trong đời sống dân cư. Nhà văn hóa, thư viện công cộng, sân chơi truyền thống, không gian lễ hội cần được nâng cấp, hoạt động thực chất và phân bố hợp lý. Việc sử dụng đất phải bảo vệ các cụm chợ cá, xóm biển cũ, đồng thời lập danh mục kiểm kê di sản vật thể và phi vật thể, phối hợp ngành văn hóa và cộng đồng xây dựng hồ sơ di sản, truyền dạy và quảng bá giá trị văn hóa đặc thù.
Hội đua thuyền hằng năm trên sông Hàn của cư dân Sơn Trà và các vùng lân cận.
Với lợi thế biển-đảo, Sơn Trà có tiềm năng xây dựng sản phẩm du lịch văn hóa độc đáo, từ lễ hội cầu ngư, lễ rước cá Ông, làng nghề nước mắm, đến chợ hải sản trải nghiệm, phố ẩm thực biển, tour làng chài. Những không gian văn hóa-sinh thái ven biển như “Phố nghề biển Mân Thái”, “Không gian ký ức vạn chài Thọ Quang”, “Điểm trình diễn bả trạo tại sân đình” có thể vừa là điểm nhấn cảnh quan, vừa là nơi sinh hoạt truyền thống.
Chính quyền phường Sơn Trà cần phối hợp với thành phố và các ngành để phục hồi, phát triển nghề truyền thống, tổ chức lớp truyền dạy cho thế hệ trẻ, khuyến khích khởi nghiệp từ giá trị địa phương, gắn văn hóa với đời sống cộng đồng hiện đại. Các lễ hội truyền thống nên được tổ chức khoa học, hấp dẫn, kết nối với du lịch và truyền thông. Một mùa “Tuần văn hóa biển Sơn Trà” hàng năm, với các hoạt động tái hiện nghề cá, trò chơi dân gian, thi nấu món biển và biểu diễn nghệ thuật dân gian, có thể trở thành thương hiệu văn hóa đặc trưng của địa phương.
Sơn Trà, với sự kết hợp giữa tiềm năng kinh tế và bản sắc văn hóa biển sâu sắc, đang hướng tới hình thành một đô thị ven biển hiện đại nhưng vẫn giữ được linh hồn của cộng đồng vạn chài./.