Sau khi nhận quyết định phân công, chúng tôi được điều động về công tác tại một đơn vị đứng chân ở khu vực giáp ranh Đặc khu Quảng Ninh – vùng Đông Bắc của Tổ quốc, gắn với những địa danh quen thuộc như Ba Chẽ, Tiên Yên, Đầm Hà, Hà Cối… Với những người trẻ khi ấy, miền biển, miền biên viễn còn rất xa lạ; giao thông cách trở, đi lại gian nan qua nhiều cầu phà, đèo dốc. Từ thị trấn Hồng Gai đến trung tâm Đặc khu là một hành trình dài và nhọc nhằn, phải chờ đợi xe quân sự theo lịch hiếm hoi. Những ngày đông mưa rét, chúng tôi nằm lại ở trạm trung chuyển, có chuyến xe phải nhờ máy ủi hỗ trợ mới vượt qua được những con đèo trơn trượt. Bối cảnh xã hội khi ấy vừa trải qua nhiều biến động, không khí nơi vùng mỏ, nhất là khu vực giáp biên, vẫn còn nặng trĩu những lo toan.
Ảnh minh họa
Trường Văn hoá Đặc khu được thành lập với nhiệm vụ bồi dưỡng kiến thức cho những quân nhân đã hoàn thành thời gian phục vụ, có nền tảng học vấn phổ thông và khát vọng tiếp tục con đường học tập. Từ đơn vị cơ sở, chúng tôi được điều về trường làm giáo viên. Đội ngũ giảng dạy phần lớn là những thầy giáo trẻ, vừa tốt nghiệp, nhiệt huyết còn nguyên vẹn; bên cạnh đó là một số thầy giàu kinh nghiệm được điều động từ các cơ sở giáo dục khác. Lần đầu đứng lớp, không ít người trong chúng tôi không khỏi bỡ ngỡ, bởi tuổi đời còn rất gần với học viên.
Nhưng chính sức trẻ, niềm say mê nghề nghiệp đã giúp chúng tôi nhanh chóng hòa nhịp. Những buổi cùng nhau soạn giáo án, giảng thử, góp ý chuyên môn giữa các khối khoa học tự nhiên và khoa học xã hội diễn ra đều đặn. Người đi trước tận tình nâng đỡ người mới vào nghề. Học viên – những người lính trở về sau quãng thời gian rèn luyện gian khó mang theo khát vọng được ngồi trên giảng đường đại học, lắng nghe từng bài giảng với thái độ chăm chú, cầu thị. Người thầy trẻ chỉ biết dốc hết vốn tri thức và tâm huyết để tiếp sức cho ước mơ ấy.
Điều kiện dạy và học còn nhiều thiếu thốn: điện lúc có lúc không, lớp học đơn sơ, trang thiết bị giản tiện; bữa ăn đạm bạc, sinh hoạt chật vật. Thế nhưng, “ý thầy gặp lòng học viên”, không khí học tập luôn sôi nổi. Thầy trò sát cánh bên nhau, ngày đêm ôn luyện, chia sẻ từng tiến bộ nhỏ. Mỗi ánh mắt chăm chú, mỗi cánh tay giơ lên phát biểu đều trở thành nguồn động viên lớn lao với những người lần đầu đứng trên bục giảng.
Niềm vui của người thầy trẻ vỡ òa khi nhận được thư báo tin học viên trúng tuyển. Có người chưa trọn vẹn nguyện vọng nhưng vẫn lạc quan, quyết tâm thi tiếp để không phụ công rèn luyện. Kết quả đạt được còn khiêm tốn, bởi quãng thời gian ôn tập ngắn khó bù đắp những khoảng trống kiến thức kéo dài theo năm tháng, song tinh thần vượt lên chính mình thì không thể đong đếm.
Vài năm sau, mỗi người một ngả: có người chuyển công tác, có người trở về Hà Nội, có người gắn bó lâu dài với đất Quảng Ninh, xây dựng gia đình và cuộc sống mới. Dẫu vậy, chúng tôi vẫn giữ thói quen gặp lại nhau nơi vùng đất cũ để ôn kỷ niệm, nhắc chuyện xưa. Không thể quên sự đùm bọc của người dân địa phương – những bữa cơm sẻ chia, những ngày cùng nhau làm việc, giúp đỡ con em học tập – thân tình như người một nhà.
Những tháng năm đầu tiên được trở lại bục giảng, sống trọn với nghề dạy học trong điều kiện gian khó nhưng chan chứa nghĩa tình, đã để lại dấu ấn sâu đậm. Đó là quãng đời không thể phai mờ nơi lòng yêu nghề được hun đúc, và ký ức đẹp về một thời tuổi trẻ vẫn âm thầm tỏa sáng theo năm tháng.
VĂN HÙNG