Lá thư thời chiến

Mẹ vẫn thường kể với chúng tôi, niềm tự hào lớn nhất của đời mẹ là bố – người đã dành trọn cuộc đời cống hiến cho quân đội với phẩm chất của một “Bộ đội Cụ Hồ”. Từ ngày nhập ngũ, không ngừng rèn luyện và trưởng thành trong hàng ngũ cán bộ, bố sống trọn vẹn với lời dạy của Bác Hồ dành cho người quân nhân cách mạng. Gia tài ông để lại không phải là vật chất, mà là những thế hệ con cháu biết kính trên nhường dưới, hiếu thảo, tự lập; là kết tinh của tình yêu bền bỉ giữa bố và mẹ, được lưu giữ lặng thầm trong những trang thư và cuốn nhật ký mẹ luôn nâng niu như một phần ký ức không thể phai mờ.

Thi thoảng, mẹ lại lặng lẽ giở đọc không biết chán những lá thư, những trang nhật ký đã ngả màu thời gian. Mỗi lần như thế, trong ánh mắt mẹ ánh lên niềm tự hào và hãnh diện về người bạn đời tri kỷ đã đi trước. Chúng tôi – những người con truyền tay nhau đọc trong xúc động, nỗi nhớ cha dâng trào. Những lá thư, cuốn nhật ký ấy chan chứa tình nghĩa vợ chồng, tình yêu đôi lứa của một thời đặc biệt trong lịch sử dân tộc – thứ tình cảm đã đi vào thơ ca, âm nhạc, điện ảnh và sống bền bỉ cùng năm tháng.

Ảnh minh họa
Ảnh minh họa

Không chỉ riêng gia đình chúng tôi. Nhiều thế hệ bạn đọc từng xúc động trước những cuốn sách được làm nên từ “Những bức thư thời chiến”, từ nhật ký của liệt sĩ Đặng Thùy Trâm, liệt sĩ Nguyễn Văn Thạc và biết bao cánh thư được gìn giữ suốt nhiều thập kỷ. Sau chiến tranh, với sự hỗ trợ của các cán bộ, cựu chiến binh, bạn bè và các cơ quan, tổ chức, Đại tá, nhà báo, nhà thơ Đặng Vương Hưng đã bền bỉ sưu tầm trong suốt nhiều năm để hình thành “Bảo tàng Thư” nơi lưu giữ những hiện vật ngôn ngữ đặc biệt, gửi lại cho thế hệ sau thông điệp sâu sắc về chiến tranh và hòa bình, về cái giá của độc lập, tự do, về tình yêu và sự hy sinh của lớp người đi trước.

Mỗi lá thư có một hoàn cảnh ra đời riêng: viết trong điều kiện hết sức giản dị, nơi chiến trường xa xôi; viết vội giữa những khoảng lặng hiếm hoi của cuộc sống người lính; viết trong những thời khắc mà sự sống và mất mát cận kề. Trong từng dòng chữ là những tâm sự chân thành gửi cha mẹ, người thân, gửi người yêu, người vợ trẻ ở hậu phương. Mỗi cánh thư là một câu chuyện đời rất thật, nơi hạnh phúc đan xen nỗi đau, nơi niềm tin và hy vọng song hành cùng mất mát. Không bi lụy, nhưng day dứt; không ủy mị, nhưng thấm thía đó chính là vẻ đẹp nhân bản của con người Việt Nam, biết yêu thương, biết hy sinh và dâng hiến vì đất nước.

Với người lính và người ở hậu phương, mỗi cánh thư là một niềm vui, một điểm tựa tinh thần, là sợi dây gắn kết bền chặt tình cảm gia đình, tình yêu đôi lứa, tình đồng đội. Những lá thư vượt qua nhiều chặng đường, qua tay người đưa tin, qua đường bưu chính hay nhờ đồng đội mang hộ, để rồi được đón nhận trong sự hồi hộp, mong chờ đến nao lòng. Có niềm vui vỡ òa, cũng có những khoảnh khắc lặng im khi đọc tin buồn. Mọi cung bậc cảm xúc đều được gửi gắm trọn vẹn sau mỗi cánh thư như những “cánh chim” mang theo tin tức, hy vọng và niềm tin.

“Nét chữ nết người” – câu nói xưa dường như đúng hơn bao giờ hết khi nhìn lại những lá thư ấy. Mỗi nét chữ, mỗi cách diễn đạt mang dấu ấn riêng của người viết: mộc mạc, giản dị hay bay bổng, lãng mạn; ngắn gọn hay dài dòng. Dù khác nhau về hình thức, tất cả đều chung một điều: nỗi nhớ da diết và tình cảm sâu nặng dành cho nhau, không phân biệt người ở tiền tuyến hay hậu phương.

Trong thời đại công nghệ số, con người kết nối với nhau bằng những phương thức nhanh chóng, tiện lợi. Tưởng chừng thư tay đã lùi vào dĩ vãng, nhưng thực tế vẫn còn nhiều người trân trọng những giá trị truyền thống. Những cánh thư viết tay, với giấy, mực và nét chữ riêng, vẫn mang một sức nặng cảm xúc đặc biệt, làm giàu thêm đời sống tinh thần và tình cảm con người.

Như cánh chim không mỏi, lá thư thời chiến đã trở thành một phần ký ức đẹp, đáng trân trọng và tự hào. Đó là nhịp cầu nối quá khứ hào hùng với hiện tại, nhắc nhớ mỗi chúng ta gìn giữ hòa bình, trân quý cuộc sống hôm nay và nuôi dưỡng những giá trị nhân văn bền vững của con người, của quê hương, đất nước.

VĂN HÙNG