Theo số liệu thống kê từ Ngân hàng Nhà nước cho thấy tính đến tháng 10/2023, người dân gửi tiền vào ngân hàng tăng thêm 422 tỷ đồng so với tháng 9, đạt hơn 6,44 triệu tỷ đồng. Đây là mức cao nhất từ trước đến nay.
Nguyên nhân được nhiều chuyên gia kinh tế nhận định là do các kênh đầu tư chứng khoán, bất động sản không còn hấp dẫn và nhiều rủi ro. Việc lãi suất tiền gửi tại các ngân hàng thời gian qua giảm mạnh nhưng lượng tiền gửi vẫn tăng cao cho thấy dòng tiền vẫn còn thận trọng trong việc dịch chuyển sang các kênh khác như bất động sản hay chứng khoán...
Bên cạnh đó, hoạt động sản xuất kinh doanh năm 2024 cũng được dự báo còn nhiều khó khăn, thách thức. Năng lực hấp thụ nguồn vốn tín dụng của doanh nghiệp vẫn ở mức thấp, nợ xấu có xu hướng gia tăng, thị trường trái phiếu doanh nghiệp trầm lắng… Đây cũng đều là những nguyên nhân khiến dòng tiền tiết kiệm chưa thể chuyển hướng sang các kênh đầu tư tương ứng.
Trong năm 2023, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã thực hiện 4 lần giảm lãi suất điều hành, với mức giảm 0,5 - 2%/năm. Lần thứ nhất có hiệu lực từ giữa tháng 3/2023 và lần thứ tư vào tháng 6/2023. Sau lần giảm lãi suất gần đây nhất, lãi suất cho vay qua đêm chỉ còn 5%/năm, lãi suất tái cấp vốn là 4,5%/năm, lãi suất tái chiết khấu là 3,0%/năm...
Tính đến giữa tháng 1/2024, nhiều ngân hàng thương mại tiếp tục áp dụng biểu lãi suất tiết kiệm thấp. Chẳng hạn như, Techcombank đã đưa lãi suất tiền gửi tiết kiệm Phát lộc tại quầy kỳ hạn 1 và 2 tháng hiện dao động từ 2,55 - 2,7%/năm; KienLongBank đưa lãi suất 9 tháng xuống còn 5,2%/năm. Trong khi đó, lãi suất kỳ hạn 2 tháng tại Vietcombank cũng đã giảm về mức rất thấp với chỉ 1,7%/năm, kỳ hạn 12 tháng chỉ còn 4,7%/năm…
Với đầu ra, lãi suất cho vay cũng đã có diễn biến giảm sâu. Theo công bố của NHNN, mặt bằng lãi suất cho vay hiện nay đã giảm được khoảng 2,5% so với giai đoạn cuối năm 2022. Đến thời điểm đầu năm 2024, lãi suất cho vay mua nhà của các ngân hàng nhóm Big 4 trong giai đoạn ưu đãi lãi suất chỉ còn khoảng từ 6,4 - 7%/năm. Hết thời hạn ưu đãi, lãi suất thả nổi theo biên độ khoảng 3,5%.
Trong bối cảnh hiện nay, một số chuyên gia cho rằng, dự báo lãi suất đầu vào đã đi vào vùng đáy và khó có khả năng giảm thêm, khi cầu tín dụng sẽ có xu hướng tăng lên. Trong khi đó, lãi suất đầu ra hiện đã xuống mặt thấp, nhưng dư địa có thể giảm thấp hơn nữa vẫn còn, đặc biệt là trong nhóm các ngân hàng cổ phần.
Tuy nhiên về trung hạn và dài hạn, lãi suất sẽ còn phụ thuộc các yếu tố vĩ mô như diễn biến của tình hình xuất nhập khẩu, lạm phát… Trong đó, hoạt động xuất nhập khẩu phục hồi có thể sẽ làm gia tăng nhu cầu vay vốn và theo đó tạo ra áp lực làm cho lãi suất tăng trở lại.
Ông Tim Leelahaphan - chuyên gia kinh tế Thái Lan và Việt Nam thuộc Ngân hàng Standard Chartered cho biết, hiện nay xuất nhập khẩu đang bắt đầu phục hồi, mặc dù thương mại điện tử vẫn chưa thấy tín hiệu phục hồi rõ ràng. Sự phục hồi FDI còn mờ nhạt, dấu hiệu phục hồi dòng vốn FDI mạnh mẽ hơn đòi hỏi tốc độ tăng trưởng GDP nhanh hơn.
Trong bối cảnh này, lạm phát có thể tăng lên 5,5% vào năm 2024 và tỷ lệ tái cấp vốn dự kiến sẽ duy trì ở mức 4,5% cho đến cuối quý III/2024. Trong khi đó, các chuyên gia cũng đề cập các yếu tố có thể ảnh hưởng đến lãi suất trong nước còn từ bối cảnh tăng trưởng của nền kinh tế thế giới, đặc biệt là Mỹ vì việc này sẽ ảnh hưởng đến sức tiêu dùng của các nền kinh tế thế giới, từ đó tác động đến năng lực tiêu thụ của hàng hóa của các doanh nghiệp Việt Nam.
Theo TS. Nguyễn Hữu Huân - Trưởng Bộ môn Thị trường tài chính, Đại học kinh tế TP. Hồ Chí Minh nhận định, Lãi suất hiện đã giảm thấp hơn khá nhiều so với năm ngoái và tôi cho rằng lãi suất huy động đã đi vào vùng đáy khó giảm hơn nữa, còn lãi suất cho vay có thể giảm thêm được chút ít nữa.
Diễn biến này có thể sẽ kéo dài đến qua Tết Âm lịch, nhưng trong trung hạn diễn biến lãi suất tăng hay giảm hoặc đi ngang sẽ phụ thuộc nhiều vào kinh tế thế giới.
Ngoài ra, động thái của FED cũng là yếu tố quan trọng có thể có ảnh hưởng, quan điểm của FED trước nay họ thường ưu tiên trong việc kiểm soát lạm phát nên nếu lạm phát còn cao thì có thể FED sẽ vẫn neo lãi suất ở mức cao. Trong khi đó, trường hợp lạm phát hạ nhiệt thì chính sách của FED có thể sẽ đi theo xu hướng “hạ cánh mềm”, tức đưa lãi suất vào chu kỳ giảm từ từ và điều này có thể có tác động kích kinh tế tăng trưởng và phục hồi các nhu cầu tiêu dùng.
Với nền kinh tế trong nước, ngoài các yếu tố kinh tế khác thì lạm phát cũng là một trong những yếu tố cần quan tâm. Giai đoạn tới lạm phát có thể chịu áp lực tăng trở lại vì NHNN đã duy trì chính sách tiền tệ nới lỏng trong một thời gian dài, tuy nhiên sẽ phải từ đầu quý II mới có thể có những biểu hiện rõ ràng.
Theo báo cáo của Công ty chứng khoán VCBS mới đây, sau khi NHNN thực hiện bốn lần giảm lãi suất điều hành, lãi suất huy động giảm nhanh và lãi suất cho vay thực tế đã ghi nhận giảm khoảng 2-2,5% tại các khoản vay mới. Tuy nhiên, lãi suất dành cho các khoản vay hiện hữu vẫn ở ngưỡng cao khoảng trên 10%/năm do có độ trễ 3-6 tháng so với lãi suất huy động và có sự phân hóa về mức độ giảm giữa các ngành nghề.
Tiến Hoàng