Kinh tế biển của Việt Nam lâu nay thường nhắc nhiều người liên tưởng đến khai thác - đánh bắt xa bờ, là dầu khí, hải cảng, đô thị, khu kinh tế ven biển...
Dự thảo Văn kiện Đại hội XIV đánh dấu bước chuyển quan trọng trong cách nhìn về kinh tế biển. Thay vì chỉ hướng tới mục tiêu “quốc gia mạnh về biển”, nay ưu tiên “kinh tế biển xanh” phát triển kinh tế từ biển nhưng vẫn bảo vệ môi trường và hệ sinh thái. Những ngành mới như năng lượng gió ngoài khơi, hydrogen xanh, nuôi trồng biển công nghệ cao được đặt vào trọng tâm, mở ra cơ hội chưa từng có.
Một điểm nổi bật khác là công nghệ số được gắn chặt với biển: từ bản đồ số đại dương, dữ liệu lớn đến trí tuệ nhân tạo hỗ trợ dự báo thiên tai, giám sát môi trường. Đây là bước đi cần thiết để tránh khai thác truyền thống gây kiệt quệ tài nguyên.
Không gian kinh tế biển cũng được mở rộng ra vùng biển xa bờ, biến các đảo và quần đảo thành “cực tăng trưởng” tiềm năng. Đây là hướng đi quan trọng, đặc biệt với tiềm năng điện gió ngoài khơi hàng chục gigawatt, giúp Việt Nam nắm bắt cơ hội trong xu thế phát triển kinh tế biển hiện đại và bền vững.
Điểm thay đổi rõ nhất là từ mục tiêu “quốc gia mạnh về biển” trước đây, Dự thảo Văn kiện hiện nay nghiêng nhiều sang khái niệm “kinh tế biển xanh”.
Dự thảo Văn kiện Đại hội XIV đánh dấu bước chuyển tư duy quan trọng về tài nguyên biển. Thay vì “khai thác tối đa”, Việt Nam hướng tới “quản trị dựa vào hệ sinh thái”, sử dụng tài nguyên có chừng mực, biết bảo vệ và tái tạo. Rừng ngập mặn, rạn san hô hay thảm cỏ biển giờ được xem là kho chứa carbon xanh, là tài sản quốc gia, phản ánh cách nhìn thiên nhiên như vốn, không chỉ là cảnh quan.
Về hợp tác quốc tế, dự thảo nhấn mạnh dòng vốn xanh, từ trái phiếu xanh, quỹ biển xanh đến hợp tác phát triển điện gió ngoài khơi, thu hút tập đoàn lớn đầu tư. Điều này cho thấy kinh tế biển xanh đòi hỏi nguồn lực lớn và hợp tác toàn cầu.
Một điểm đáng chú ý khác là khái niệm “an ninh sinh thái biển”. Không chỉ bảo vệ chủ quyền hay lãnh hải, an ninh biển còn gắn với bảo vệ môi trường, nguồn lợi thủy sản và ứng phó biến đổi khí hậu. Môi trường bị phá cũng là một dạng rủi ro an ninh, phản ánh tư duy hiện đại, phù hợp với xu hướng thế giới.
Một khi tư duy thay đổi đúng hướng, con đường phía trước có thể rộng mở hơn.
Có thể nói, những thay đổi trong Dự thảo Đại hội XIV cho thấy tư duy kinh tế biển của Đảng ta đã mở hơn, mạnh dạn hơn. Từ “ngành” sang “hệ sinh thái”; từ ven bờ ra xa bờ; từ tài nguyên sang công nghệ; từ nguồn lực trong nước sang huy động quốc tế; từ phát triển kinh tế sang phát triển gắn với môi trường và an ninh sinh thái. Tôi nghĩ đó là sự cập nhật cần thiết, bởi thế giới đang đi rất nhanh, nhất là trong năng lượng tái tạo và công nghệ biển.
Việt Nam có một vùng biển rộng lớn với hơn một triệu km². Trong nhiều thập kỷ, chúng ta vẫn luôn nói “giàu lên từ biển” nhưng để thực sự giàu, cần cách làm khác. Dự thảo Văn kiện Đại hội XIV dường như đã mở ra hướng đó, hiện đại hơn, xanh hơn, có kế hoạch hơn. Tất nhiên, văn kiện là định hướng. Để đi vào cuộc sống, cần quy hoạch rõ ràng, cơ chế thử nghiệm mạnh mẽ, luật lệ phù hợp và cũng cần cả quyết tâm chính trị. Tuy nhiên, điều quan trọng là tư duy đã thay đổi. Và khi tư duy thay đổi đúng hướng, con đường phía trước có thể rộng mở hơn. Với biển, Việt Nam có thể làm được nhiều hơn những gì chúng ta từng tưởng./.