Cây chè Việt Nam được chia thành hai vùng rõ rệt: Vùng chè đặc sản và vùng chè công nghiệp. Vùng chè đặc sản, còn được gọi là chè cổ, bao gồm những cây chè cổ thụ có thân to, từ một đến hai người ôm, cao từ 10 đến 40 mét. Những cây chè này mọc trải dài khắp các tỉnh từ Đông Bắc đến Tây Bắc, mang lại hương vị và giá trị dinh dưỡng đặc biệt.
Vùng chè công nghiệp bao gồm các giống chè được người Pháp du nhập vào Việt Nam. Các giống chè này đã phát triển và nhân rộng ra nhiều vùng nổi tiếng như Lâm Đồng, Phú Thọ, Mộc Châu và Thái Nguyên. Vùng chè công nghiệp chủ yếu tập trung vào sản xuất với quy mô lớn, nhằm đáp ứng nhu cầu thị trường trong nước và xuất khẩu.
Sự phân chia này không chỉ phản ánh sự đa dạng trong giống chè mà còn thể hiện sự khác biệt trong phương pháp canh tác và giá trị kinh tế mà mỗi vùng mang lại.
Cây chè cổ thụ, đặc biệt là giống chè Shan tuyết, được biết đến như một phần không thể thiếu trong đời sống của các dân tộc thiểu số như Dao, Mông, Tày và Thái. Những cộng đồng này đã khai thác và trồng chè từ rất sớm, góp phần tạo nên nền văn hóa trà phong phú tại các vùng núi phía Bắc.
Có thể nói, không quốc gia nào sở hữu nguồn nguyên liệu chè cổ thụ phong phú và đa dạng như Việt Nam. Các tỉnh từ Hà Giang, Lào Cai, Yên Bái, Sơn La, Điện Biên đến Thái Nguyên đều nổi tiếng với những vùng chè cổ thụ. Không chỉ những vùng chè đã được các dân tộc như Dao, Mông, Thái, Tày khai thác từ lâu đời, mà còn có những phát hiện mới như rừng chè nguyên sinh ở độ cao 2.200 mét trên đỉnh Phanxipang (Lào Cai) với những cây chè có thân to đến hai người ôm và cao trên 30 mét ở núi Hồng (Thái Nguyên).
Theo đại diện Viện Nghiên cứu Chè Việt Nam, "trên bản đồ ngành chè thế giới, dải chè cổ kéo dài qua các quốc gia như Ấn Độ, Myanmar, Thái Lan, Trung Quốc và Việt Nam. Giống chè cổ ở các quốc gia này đều có nét tương đồng và được định danh là giống chè Shan tuyết cổ thụ. Việt Nam cũng có vùng chè Shan tuyết rộng lớn, nhưng không thể khẳng định rằng Việt Nam là thủy tổ của ngành chè thế giới. Chúng ta chỉ có thể nói rằng Việt Nam là một trong những cái nôi của ngành chè toàn cầu."
Bản Bẹ, xã Tà Xùa, huyện Bắc Yên, có các cây chè cổ thụ hàng trăm năm tuổi đã được xếp vào loại cây di sản. Cả xã Tà Xùa có gần 300 ha cây chè Shan tuyết, trong đó, khoảng 40 ha cây chè Shan tuyết cổ thụ, với 2.500 - 3.000 cây có 100 - 300 tuổi, tập trung ở bản Bẹ; còn hơn 250 ha chè dưới 100 năm tuổi trồng ở các bản Tà Xùa, Chung Chinh. Người cao tuổi ở bản Bẹ kể từ khi lớn lên đã thấy cây chè to lớn lắm và không ai biết rõ cây chè có từ bao giờ. Trước đây bà con thường hái búp chè tươi về sao lên để uống và tặng cho khách quý. Trà là thức uống hằng ngày, gắn bó với đời sống sinh hoạt, văn hóa của đồng bào dân tộc Mông vùng cao Tà Xùa hàng trăm năm nay, nghề sao chè cũng ra đời từ đó.
Những cây chè cổ thụ có thân cây cao to, vỏ cây rêu mốc, nhiều địa y bám vào, cành vươn xa phải bắc thang trèo lên mới hái được từng búp chè non bỏ vào gùi. Công việc thu hái trên những cây chè cổ thụ tốn nhiều công sức, mỗi cây chè cổ thụ cho hái một năm 3 lứa, mỗi lứa hái được 7-8 kg.
Tại Suối Giàng (Văn Chấn, Yên Bái), có cây chè lớn nhất vùng, được gọi là chè lồ Suối Giàng. Cây chè này có thân to hơn một vòng tay người ôm và được các nhà khoa học xác định có tuổi thọ hơn 300 năm.
Ngoài Suối Giàng, ở các vùng chè cổ khác, tuổi thọ của các cây chè thường được ước lượng dựa trên tuổi đời của người dân địa phương. Tại bản Hấu Chua ven sông Đà, nằm ở ranh giới giữa Điện Biên và Sơn La, ông trưởng bản Hạng A Chư được biết đến với danh xưng “vua chè cổ.” Ông sở hữu một vườn chè cổ thụ với hơn 400 cây, cao từ 8 đến 15 mét, nhiều gốc cây to đến mức hai người ôm không xuể.
Ông Chư chia sẻ: “Bố mình hồi nhỏ đã lấy hạt chè ngoài vườn và trồng lên một cây. Nay đã hơn 80 năm, đường kính của nó chỉ khoảng 30 cm. Vườn nhà mình có vài cây to hơn hai người ôm, mình nghĩ chắc chắn chúng phải hơn 300 tuổi rồi.”
Những cây chè cổ thụ không chỉ có giá trị kinh tế mà còn là biểu tượng văn hóa và lịch sử, thể hiện sự gắn bó lâu dài giữa con người và thiên nhiên trong các cộng đồng dân tộc.
Được biết, nét đặc trưng của những vùng chè cổ thụ là người dân địa phương không tốn công gieo trồng chăm bón, chỉ thu hái theo vụ mùa và phó mặc cho đất trời nuôi dưỡng. Vùng chè cổ thụ thường ở độ cao trung bình từ 1.500 mét so với mực nước biển, quanh năm được mây núi, sương lạnh che phủ, thời tiết khắc nghiệt, giúp cây chè có sức sống mãnh liệt, tạo hương vị đặc trưng.
Những cây chè cổ thụ tại Việt Nam không chỉ mang giá trị kinh tế mà còn là biểu tượng văn hóa, thể hiện sự gắn bó giữa con người và thiên nhiên qua hàng thế kỷ.