Trà đen là lá chè khô đã trải qua quá trình oxy hóa hoàn toàn. Nó còn được gọi là hồng trà bởi màu sắc của nước sau khi pha chế. Trên lý thuyết hai dòng trà này hoàn toàn giống nhau. Tuy nhiên, trà đen (loại black tea lên men sâu 100%) có vị chát, đậm, màu nước đen đỏ đậm. Còn hồng trà (loại black tea lên men 80-90%), chát nhẹ hơn loại lên bên trên, màu đỏ hồng sáng hơn màu của loại trên, hậu vị êm dịu và hơi ngọt.
Đây là dòng trà thuộc loại trà lên men, nguyên liệu chính để làm trà đen đó là được làm từ những búp trà non, trải qua một loạt các công đoạn phức tạp và cầu kỳ như làm héo, vê nhào ( hoặc cắt ), lên men, hong khô mà thành trà. Trà đen chất lượng cao sẽ dẫn ra nước màu nâu đỏ trong sáng, hương thơm quả chín, và vị chát dịu.
Trà đen không chỉ có lịch sử lâu đời mà còn chiếm vị trí quan trọng trong nền ẩm thực và văn hóa của nhiều quốc gia. Các loại trà đen nổi tiếng thế giới hiện nay chủ yếu xuất xứ từ Sri Lanka, hoặc Assam và Darjeeling của Ấn Độ.
Nguồn gốc lịch sử của trà đen tại Trung Quốc là một hành trình thú vị đánh dấu bằng sự phát triển và tạo ra các loại trà độc đáo. Trà đen, còn được gọi là “hồng trà” trong tiếng Trung, có nguồn gốc từ thời kỳ cuối của triều đại Minh (1368-1644) tại tỉnh Phúc Kiến. Trong giai đoạn này, nhu cầu xuất khẩu trà sang các nước phương Tây đã thúc đẩy việc phát triển trà đen để phù hợp với khẩu vị của người tiêu dùng tại những nơi này.
Quá trình sản xuất trà đen ở Trung Quốc bao gồm các bước quan trọng như vò lá trà, định hình trà, oxi hóa và sấy khô. Quá trình oxy hóa là yếu tố quyết định sự khác biệt giữa trà đen và trà xanh. Trong quá trình này, các enzim trong lá trà phản ứng với không khí, tạo nên hương vị và màu sắc đậm đặc đặc trưng cho trà đen.
Một truyền thuyết thú vị được lưu truyền rằng trà đen được phát hiện tình cờ trên Con đường Tơ lụa và Con đường Trà. Khi đó có một đoàn lữ hành mang trà qua mùa mưa. Khi trà bị ngâm nước mưa, người vận chuyển cho rằng trà bị bẩn và sẽ hỏng, nên họ để trà lại. Tuy nhiên vào các năm sau, những ngôi làng gần đó lại bị bùng phát dịch kiết lỵ. Để cứu người dân trong tuyệt vọng, họ quyết định uống loại trà đã bị bỏ hoang và đã bị lên nấm lên men. Thật kỳ diệu, loại trà này đã chữa khỏi bệnh cho người dân trong làng. Từ đó,trà đen trở nên nổi tiếng và được công nhận. Câu chuyện này thực sự là một minh chứng cho sức mạnh và giá trị của trà đen.
Việc trà đen du nhập vào Châu Âu là một phần quan trọng của lịch sử và văn hóa trà trên khắp thế giới. Trà đen, có nguồn gốc từ Trung Quốc, đã đánh bại cảnh người uống trà chỉ biết đến trà xanh và trà ô long để trở thành một biểu tượng văn hóa và thức uống phổ biến tại châu lục này. Trà đen du nhập châu Âu vào năm 1610. Đến năm 1662, khi Công nương Catherine của Bồ Đào Nha kết hôn với Vua Charles II, trà đen được đưa vào hoàng gia Anh. Thưởng trà đen nhanh chóng trở thành một phần không thể thiếu trong cuộc sống của giới quý tộc. Vào thế kỷ 17, trong thời kỳ thực dân hóa và mở cửa Châu Âu, các nhà thám hiểm và nhà thương mại mang trà đen từ châu Á về Châu Âu.
Đầu tiên, trà đen được ưa chuộng bởi tầng lớp thượng lưu và quý tộc vì tính xa xỉ của nó. Trong thế kỷ 18, trà đen trở nên phổ biến hơn và bắt đầu xuất hiện trong nhiều gia đình ở các tầng lớp khác nhau.
Trà đen không chỉ là một thức uống tinh tế mà còn là một biểu tượng của sự lịch lãm và phong cách. Vào thời Victorian ở Anh, lễ trà buổi chiều trở thành một phong tục quý tộc, nơi mọi người tụ tập để thưởng thức trà đen, bánh ngọt và trò chuyện. Sự ưa chuộng của trà đen đã dẫn đến sự phát triển của các loại hình kinh doanh liên quan đến trà, như cửa hàng trà và nhà hàng trà.
Từ những ngày đầu du nhập đến hiện nay, trà đen đã trở thành một phần không thể thiếu của cuộc sống và văn hóa ẩm thực châu Âu. Điều này chứng tỏ sức hút và giá trị văn hóa của trà đen vượt qua biên giới và thời gian.
Trà đen dần dần được nhân rộng thành một thức uống gần như toàn cầu do sự đan xen tuyệt vời của các yếu tố lịch sử khác nhau qua nhiều thế kỷ. Vì lịch sử phát triển lâu đời nên trà đen ở mỗi quốc gia lại mang một dáng vẻ khác nhau.
Người Anh uống trà đen nhiều hơn trà xanh, và đã phát triển nền văn hóa trà đen độc đáo của mình, điển hình là phong tục uống trà chiều. Tuy nhiên, do vẫn phải phụ thuộc vào các thương nhân ngoại quốc sang tay đổi hàng và không thể nhập khẩu trực tiếp nên giá trà đen thời điểm đó rất đắt
Trà đen được trồng và chế biến trên toàn thế giới ở các vùng địa lý và khí hậu khác nhau. Ba trong số những nhà sản xuất trà đen lớn nhất hiện nay là Ấn Độ, Sri Lanka và Châu Phi. Trên thực tế, một nửa sản lượng trà thế giới có nguồn gốc từ Ấn Độ. Một số phong cách phổ biến nhất của trà đen đến từ các quốc gia sản xuất hàng đầu này.
Assam: Vùng Assam của Ấn Độ là khu vực trồng trà lớn nhất thế giới. Khí hậu nhiệt đới và mưa nhiều đã tạo ra một loại trà nổi tiếng với các đặc tính đậm đà và hương mạch nha dễ dậy mùi khi pha với sữa và đường.
Darjeeling: Được trồng ở một vùng sản xuất trà ở miền núi của Ấn Độ với quy mô nhỏ hơn, Darjeeling là một loại trà đen có vị thanh hơn và có thể thay đổi theo mùa do thay đổi thời tiết. Darjeeling thường được dùng làm nền cho thức uống nổi tiếng của Ấn Độ có tên gọi là Chai.
Ceylon: Phần lớn nền kinh tế của Sri Lanka phụ thuộc vào hơn 200 ngàn hecta đồn điền trà được trồng từ vùng núi mát mẻ đến vùng nhiệt đới ẩm ướt. Hầu hết xuất khẩu trà của Sri Lanka là trà đen, được gọi là Ceylon. Các loại trà Ceylon có thể thay đổi tùy thuộc vào nơi canh tác, nhưng chúng thường được biết đến với hương mạnh mẽ khi pha với một chút gia vị. (Sri Lanka cũng nổi tiếng với sản xuất Quế)
Kenyan: Là người đến muộn trong ngành sản xuất trà (đầu những năm 1900), Kenya đã học hỏi rất nhanh và hiện dẫn đầu Châu Phi và ngành công nghiệp sản xuất trà đen theo phong cách phi chính thống. Trà Kenya được biết đến với phong cách quyết đoán, đầy đặn.
Tetulia: Mặc dù không phải là nơi sản xuất trà hàng đầu trên thế giới, khu vực Tetulia của miền Bắc Bangladesh là quê hương của các đồn điền trà hữu cơ được chứng nhận USDA. Với gần 80 ngàn hecta, hãng trà Tetulia tự hào rằng các trang trại trà của họ là một trong những cái lớn nhất trên thế giới. Họ trồng giống trà Camellia sinensis assamica bằng phương pháp canh tác tự nhiên không gây hại cho môi trường. Và họ sử dụng phương pháp chính thống để chế biến trà đen, vì vậy lá trà sau khi oxy hóa hoàn toàn vẫn còn nguyên và khi pha sẽ tạo ra hương vị tươi ngọt của quả mơ và mật ong.