Nông nghiệp Hà Nội: Hành trình vươn mình mạnh mẽ và khẳng định thương hiệu

Nông nghiệp Thủ đô không chỉ giữ vai trò then chốt trong bảo đảm an ninh lương thực cho gần 10 triệu dân, mà còn đang từng bước nâng tầm thương hiệu, mở rộng thị trường xuất khẩu và khẳng định vị thế trên bản đồ nông sản Việt Nam.

Từ khó khăn sau năm 1945...

Ứng dụng mạ khay cấy máy giúp giảm chi phí sản xuất và nâng cao năng suất lúa. Ảnh: Hương Giang
Ứng dụng mạ khay cấy máy giúp giảm chi phí sản xuất và nâng cao năng suất lúa. Ảnh: Hương Giang

Từ năm 1945, nông nghiệp Hà Nội đã trải qua một hành trình đầy gian khó nhưng cũng tràn đầy vinh quang. Sau giải phóng, chiến tranh để lại hậu quả nặng nề: nông thôn tiêu điều, ruộng đất bỏ hoang, trâu bò khan hiếm, thủy lợi chưa phát triển và dịch bệnh hoành hành. Trước yêu cầu cấp bách “khôi phục nông nghiệp để nuôi sống Thủ đô”, Thành ủy và UBND thành phố nhanh chóng chỉ đạo quyết liệt, thành lập Sở Nông lâm Hà Nội năm 1955 với hơn 200 cán bộ đầu tiên, đảm nhận nhiệm vụ hướng dẫn trồng trọt, chăn nuôi và thủy sản.

Bước sang thập niên 60, cùng với phong trào hợp tác hóa và cơ khí hóa, Hà Nội dần phục hồi sản xuất nông nghiệp. Hệ thống thủy lợi được xây dựng, đất khai hoang mở rộng, kỹ thuật canh tác hiện đại được áp dụng, đồng thời hình thành các mô hình sản xuất chuyên canh: rau, cây công nghiệp, lương thực và chăn nuôi, tạo nên những “vành đai thực phẩm” cung ứng cho Thủ đô. Năng suất lúa tăng nhanh, vượt 5 tấn/ha, nhiều hợp tác xã đạt 7 tấn/ha – con số ấn tượng trong bối cảnh cả nước còn thiếu đói.

Trong những năm chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, nông dân ngoại thành vừa sản xuất vừa chiến đấu, góp phần quan trọng bảo đảm hậu cần cho toàn quốc. Đến năm 1975, giá trị sản xuất nông nghiệp Hà Nội tăng hơn 19% so với năm 1965, minh chứng sức sống mạnh mẽ và tinh thần kiên cường của nông nghiệp Thủ đô trong bối cảnh lịch sử đầy thử thách.

… đến đổi mới và bứt phá

Bưởi đỏ Tân Lạc ở Núi Bé xã Xuân Mai, Hà Nội
Bưởi đỏ Tân Lạc ở Núi Bé xã Xuân Mai, Hà Nội

Bước vào giai đoạn thống nhất đất nước, những chính sách khoán 100 (1981) và khoán 10 (1988) đã thổi luồng gió mới vào nông nghiệp Hà Nội, biến hộ nông dân thành đơn vị sản xuất tự chủ. Chỉ trong vài năm, sản lượng lương thực tăng vọt, đời sống nông dân cải thiện rõ rệt, đánh dấu bước chuyển mình mạnh mẽ của nông nghiệp Thủ đô.

Từ những năm 1990, thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VII) về đổi mới kinh tế nông thôn, Hà Nội đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu sản xuất theo hướng hàng hóa, hình thành các vùng chuyên canh gắn với sơ chế, chế biến và bảo quản. Hệ thống thủy lợi và đê điều được củng cố, hiện đại hóa, giá trị sản lượng, năng suất và chất lượng sản phẩm liên tục tăng, đưa nông nghiệp Thủ đô vươn lên một tầm cao mới.

Đặc biệt, khi Hà Nội triển khai Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới, nông nghiệp – nông thôn – nông dân trở thành nhiệm vụ trọng tâm. Hàng nghìn tỷ đồng được đầu tư nâng cấp hạ tầng, chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, áp dụng tiến bộ kỹ thuật và nâng cao thu nhập cho người dân. Sau 15 năm kiên trì thực hiện, Hà Nội trở thành địa phương đầu tiên trong cả nước hoàn thành nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới, minh chứng cho sức sống bền bỉ và sự đổi mới toàn diện của nông nghiệp Thủ đô.

Nông nghiệp hiện đại, bước vào giai đoạn hội nhập

Sản xuất nông nghiệp kết hợp với đón khách tham quan, trải nghiệm tại xã Liên Minh (Hà Nội). Ảnh: An Lạc Farm
Sản xuất nông nghiệp kết hợp với đón khách tham quan, trải nghiệm tại xã Liên Minh (Hà Nội). Ảnh: An Lạc Farm

Ngày nay, nông nghiệp Hà Nội không chỉ đảm bảo an ninh lương thực, mà còn chuyển dịch mạnh sang sản xuất chuyên canh, hữu cơ, công nghệ cao và xuất khẩu. Việc dồn điền, đổi thửa cơ bản hoàn tất đã tạo điều kiện hình thành những vùng sản xuất tập trung, năng suất và giá trị cao: lúa chất lượng cao, rau an toàn, cây ăn quả đặc sản như bưởi Diễn, cam Canh; vùng chăn nuôi tập trung bò sữa, bò thịt, gia cầm.

Cơ giới hóa và công nghệ 4.0 trở thành xu hướng tất yếu: 100% diện tích lúa được cơ giới hóa khâu làm đất, hơn 90% khâu thu hoạch sử dụng máy móc hiện đại. Trong chăn nuôi, Thủ đô hiện có hơn 42 triệu con gia cầm, 1,48 triệu con lợn, hơn 125 nghìn con bò và gần 30 nghìn con trâu, cùng với 6.700 trang trại lớn nhỏ, hình thành chuỗi sản xuất nông nghiệp bền vững và an toàn.

Hiện Hà Nội có khoảng 1.090 hợp tác xã nông nghiệp, gần 1.700 trang trại, hơn 149 chuỗi liên kết sản xuất – tiêu thụ và hơn 13.000 sản phẩm được cấp mã QR, truy xuất nguồn gốc. Thành phố cũng duy trì 977 chuỗi cung ứng thực phẩm an toàn liên kết với 43 tỉnh, thành phố, khẳng định vai trò trung tâm phân phối nông sản. Không chỉ “đủ ăn, đủ dùng”, nông sản Hà Nội đã bước chân ra thị trường quốc tế, mở rộng hướng xuất khẩu với sản phẩm giá trị cao, đạt chuẩn quốc tế.

Trồng rau an toàn theo chuỗi liên kết khép kín tại Hợp tác xã Rau quả sạch Chúc Sơn
Trồng rau an toàn theo chuỗi liên kết khép kín tại Hợp tác xã Rau quả sạch Chúc Sơn

Từ những ruộng đất hoang hóa năm 1945 đến nền nông nghiệp công nghệ cao ngày nay, hành trình ấy là minh chứng sống động cho sức sống mãnh liệt của người nông dân Hà Nội, dưới sự quan tâm và chỉ đạo sát sao của Thành ủy và chính quyền thành phố.

Trong bối cảnh mới, với xu hướng toàn cầu về nông nghiệp xanh, tuần hoàn và bền vững, Hà Nội đặt mục tiêu vươn xa hơn: phát triển mạnh nông nghiệp hữu cơ, mở rộng vùng chuyên canh hàng hóa, tăng cường chế biến sâu và xuất khẩu, đồng thời xây dựng thương hiệu nông sản Thủ đô trên bản đồ thế giới.

Từ những “vành đai thực phẩm” nuôi dưỡng Thủ đô trong giai đoạn gian khó, ngày nay, nông nghiệp Hà Nội đã trở thành ngành kinh tế trọng điểm, giá trị gia tăng cao, gắn kết chặt chẽ với công nghệ, thị trường và hội nhập quốc tế, góp phần khẳng định vị thế Thủ đô Anh hùng – sáng tạo và phát triển bền vững.

Bá Thành

Từ khóa: