Trao đổi với chúng tôi, ông Vũ Văn Dần - Trưởng khu 3 xã Thạch Đồng phấn khởi cho biết: “Thạch Đồng là 1 trong 4 làng nghề truyền thống của huyện Thanh Thuỷ đã được UBND tỉnh công nhận. Trên địa bàn xã, chỉ tính riêng khu dân cư số 3 đã có 40 hộ gia đình sản xuất các ngành nghề khác nhau, thu hút hàng trăm lao động tham gia, trong đó có nhiều hộ làm tương truyền thống, nhưng nổi tiếng nhất vẫn là 2 cơ sở sản xuất tương Phượng Hiệp và Triệu Xoan. Doanh thu từ các ngành nghề đạt hơn 2 tỷ đồng, chiếm 38,9% tổng thu nhập trong khu. Để duy trì, nhân rộng, khuyến khích phát triển nghề sản xuất tương truyền thống; tranh thủ sự chỉ đạo, giúp đỡ của tỉnh, của huyện, xã đã có nhiều biện pháp nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các hộ sản xuất; đồng thời tuyên truyền, quảng bá, giới thiệu rộng rãi, mở thêm các điểm bán hàng nên sản phẩm tương làng Bợ đã có sức tiêu thụ ở các thị trường trong và ngoài tỉnh”.
Theo chân ông Dần, chúng tôi đến thăm cơ sở sản xuất tương của gia đình chị Trần Thị Phượng. Được biết chị Phượng là con dâu của nghệ nhân Chu Thị Hiệp làm tương ở khu 3. Chúng tôi đến đúng vào lúc gia đình chị đang bận rộn tính sổ sách xuất hàng cho khách. Thấy chúng tôi chị vui vẻ mời chào thân mật và nhanh nhảu chia sẻ những thành công trong những năm qua với nghề làm tương truyền thống.
Theo chị chia sẻ, mẹ chồng của chị - nghệ nhân Chu Thị Hiệp đã có thâm niên trong nghề hơn 40 năm và chị khi về làm dâu gia đình được truyền nghề đến nay cũng được hơn 20 năm. Khi nghệ nhân Chu Thị Hiệp qua đời, chị Phượng là hậu duệ kế thừa làm nghề, chị đã đạt được những thành công đáng kể, sản phẩm tương Phượng Hiệp của gia đình cũng đã tham gia các hội chợ triển lãm quảng bá thương hiệu tại thành phố Hà Nội và tỉnh Phú Thọ.
Theo chị Phượng, bí quyết để có mẻ tương ngon chính là ở khâu chọn nguyên liệu, ủ mốc, ngâm nước đỗ, nghề làm tương thường được bắt đầu từ tháng tư và kết thúc vào tháng 10 hàng năm vì tới độ tháng 10 là mùa đông sẽ khó khăn cho quá trình làm tương.
Bà Nguyễn Thị Thanh Xoan (78 tuổi) cũng là một “nghệ nhân” làm tương ở khu 3 cùng xã. Bà sinh ra trong một gia đình đã có 4 đời cha truyền con nối làm nghề tương truyền thống này. Trong câu chuyện về bí quyết làm tương, bà bảo các nguyên liệu chủ yếu để làm tương bao gồm 3 nguyên liệu chủ yếu: Muối, gạo nếp và đậu tương. Đây là công thức để mình làm ra sản phẩm thứ tương ngon thứ thiệt. Đầu tiên là khâu chọn gạo, phải sạch sẽ không có thóc lẫn bên trong gạo và các hạt gạo phải đều chứ không bị nát sẽ ảnh hưởng tới chất lượng sản phẩm, gạo sau khi đã qua quá trình chọn lọc kỹ càng được đem đi ngâm khoảng 8 đến 9 tiếng thì mới mang đi hấp hoặc đồ. Sau khi chín, xôi được đổ ra các nong, dạt đều ra nong dùng 2 nong úp 1 trong 3 ngày thì được một mẻ khoảng 60 cân gạo.
Tiếp theo đó là khâu quan trọng nhất, bà Xoan chia sẻ: Khâu ảnh hưởng nhất tới chất lượng sản phẩm tương có ngon hay không đều là do quá trình này đó chính là khâu rang mốc. Theo bà Xoan, khi rang đỗ thì phải rang làm sao cho các hạt đỗ phải thẩm chín đều từ trong ra bên ngoài tránh hiện tượng rang đỗ mà các hạt bên trong còn trắng mà bên ngoài vàng sẽ làm cho tương bị chua. Sau khi rang đỗ xong thì đến công đoạn xay ra và lên mốc bóp thì rang đều sau đó thu dung vào và cho nước và muối cứ 10 cân gạo thì 2 cân muối sau đó đem ra phơi nắng. Theo như bí quyết bà chia sẻ, tương sau khi phơi 3 nắng thì ăn được, nhưng tương càng phơi nhiều nắng thì tương sẽ ngon hơn càng phơi nhiều nắng thì tương sẽ lên màu đỏ mùi tương sẽ béo.
Bà cho biết thêm, bình quân mỗi tháng gia đình bà làm khoảng 1 tấn gạo tương, tương đương với khoảng 3000 lít tương thương phẩm, vừa giải quyết việc làm cho con cháu trong nhà, vừa đem lại khoản thu nhập đáng kể cho gia đình.
Bên cạnh đó, vấn đề an toàn thực phẩm đã được các cơ quan chức năng trên tỉnh đã nhiều lần về kiểm tra và đã công nhận tương của bà có thương hiệu và đạt tiêu chuẩn chất lượng và xung quanh khu vực sản xuất tương của bà không có một hộ chăn nuôi gì và bản thân gia đình nhà bà cũng không chăn nuôi gia súc hay bất cứ một vấn đề gì có thể ảnh hưởng tới vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm.
Các sản phẩm của bà đều tham gia các hội chợ triển lãm thương hiệu do tỉnh huyện tổ chức. Tuy nhiên do gần đây tuổi bà đã cao tuổi sức yếu nên bà không tham dự nữa mà bà nhờ chị Phượng cũng là 1 trong 2 hộ dân có chứng chỉ hành nghề do nhà nước cấp mang các sản phẩm của gia đình bà đi tham gia các hội chợ triển lãm.
Chia sẻ thêm với chúng tôi về nguồn gốc xuất xứ của thương hiệu tương làng Bợ, bà Xoan nói: Hồi trước thì làng có người làm quan ở làng Bợ, dân gian hay gọi là quan làng Bợ, từ đó cái tên tương làng Bợ trở nên quen thuộc và được người dân đặt tên luôn cho đặc sản tương là tương làng Bợ.
Ngoài những làng nghề truyền thống vẫn phát triển mạnh mẽ từ bao đời, trong lòng Thanh Thủy hôm nay còn có nhiều làng nghề mang tính chất tiểu công nghiệp khác như nghề trồng nấm mộc nhĩ, trồng hoa, nuôi thỏ... cũng đang được quan tâm và nhân rộng. Trước sức ép của nền kinh tế thị trường, nhiều làng nghề truyền thống khác đã dần mai một nhưng những làng nghề của Thanh Thủy vẫn bền bỉ phát triển bởi những sản phẩm được làm ra từ các làng nghề nơi đây luôn khẳng định được chất lượng và gắn với đời sống của người dân. Chỉ là những chiếc trúm bắt tôm, hay những chai tương nhỏ bé nhưng nó phục vụ cho nhu cầu thiết thực nhất của cuộc sống, trong công ăn, việc làm của các gia đình. Để phát triển hơn nữa các làng nghề này, thiết nghĩ Thanh Thủy cũng nên quan tâm phát triển du lịch làng nghề. Qua đó, có thể đem hình ảnh và các sản phẩm của làng nghề Thanh Thủy đến với du khách thập phương.
Ngoài việc được biết những “bí quyết” đặc sản của làng nghề truyền thống với nhiều điều lý thú, tôi còn được chìm đắm trong bầu không khí làng nghề đến say mê, càng thêm cảm phục những người nghệ nhân và cũng biết ơn họ, vì chính họ đã làm giàu cho đời sống kinh tế gia đình và bức tranh văn hóa làng nghề truyền thống. Những người lao động ấy, chính họ là những nghệ nhân tài hoa như người ta nói: “Người là hoa của đất”, làm cho quê hương, đất nước ngày một mạnh giàu./.
Sơn Thủy