Trà cổ thụ là gì?
Trà cổ thụ là loại trà được trồng trong môi trường tự nhiên ít có sự can thiệp của con người, hầu hết đều có tuổi đời trên 100 đến 300 năm. Những cây trà này chủ yếu là những cây trà lớn dạng cây thân gỗ cao lớn, hoang dã, mọc tự nhiên trong môi trường đa dạng sinh học nhiều lớp thảm thực vật xen kẽ rải rác khu vực núi cao Tây Bắc, một phần Đông Bắc, không sử dụng phân bón, thuốc trừ sâu tác động lên sự sinh trưởng của cây.
Hầu hết khai thác cây trung tới già hàng trăm năm tuổi, thân gỗ lớn từ tầm bắp tay tới vài người ôm trọn, tán lá xòe rộng, vòm cao, độ cao từ 2-15-20m theo độ tuổi, đặc thù khai thác từng vùng. Hạt chè già rụng xuống mọc lên cây con, tuổi non vài năm tới vài chục năm, từ từ kế cận lớp cây anh chị. Cây khỏe mọc lớp lá non là người dân đi hái, khí hậu khó tính thì ở nhà, cây ít ra búp nghỉ hái để sau tính, không gượng ép thu hái. Tại Lũng Phìn trong một khu tập trung nhiều cây chè lớn, có 1400 cây/ha, sản lượng ở Lũng Phìn được xem là thấp do địa hình, thời tiết khó khăn, hái 2020 cả năm 3 vụ dao động 1.6 tấn trà tươi nguyên liệu đẹp non. Sản lượng trung bình hàng năm không cao, có sự dao động theo thời tiết, phản ánh chân thực bộ mặt của môi trường tự nhiên.
Những cây trà cổ thụ chủ yếu đến từ những vùng núi cao phía Bắc như Hà Giang, Sơn La. Chúng phân bố ở vùng núi ở độ cao 1400-1800 mét và xen kẽ với rừng. Nói một cách chính xác, nó được gọi là cổ thụ trà nếu cây hơn 300 tuổi, nhưng những người khác cũng cho rằng tuổi tiêu chuẩn gần đây đã được hạ xuống 100 năm.
Trà đồi là gì?
Trà đồi hay còn gọi là trà sinh thái (trà canh tác), thường được sản xuất từ những cây trà của vườn trà canh tác dưới 20 năm tuổi. Những cây chè này chủ yếu được nông dân trồng chè trong vườn chè nên ưu điểm là quy mô lớn, quản lý thuận tiện.
Trà đồi được trồng theo hàng lối trên cánh đồng, triền đồi, triền núi từ những cây lai khác nhau phục vụ mục tiêu sản xuất đa dạng cho đối tượng khách hàng, thị trường, cho cả các loại trà khác nhau từ phân khúc bình dân, khá, cao cấp. Mật độ trà san sát cây này kế cây kia, hàng này nối tiếp hàng kia, uốn lượn như những dòng chảy ngang dọc, có thời điểm vào mùa thu hoạch, lá trà mọc cao, vòm trà đầy đặn, lá xanh mơn mởn, xa xa như những dải lụa đào bay phấp phới, đẹp đến mê ly chới với. Thân bụi, độ cao cây khoảng 45cm-1.1m, khoảng cách cây 40-60cm, khoảng cách hàng 1.3-1.7m, mật độ 18.000-30.000 cây/ha theo địa hình, tính chất sản xuất riêng. Sử dụng phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, thu hoạch hàng năm hái từ 4-10 lứa, sản lượng đồng đều, rất cao. Đồi trà oolong miền Bắc chất lượng tốt hái 4 lứa (quay theo 4 mùa) mật độ 25.000 cây/ha, một năm thu về khoảng 7.5 tấn trà tươi non. Một vùng trà cao sản sản xuất trà đen xuất khẩu, chất lượng tầm trung bình, mật độ 25.000 cây/ha, thu hoạch một năm gần 50 tấn trà tươi, hái 10 lần liên tục.
Sự khác nhau giữa trà cổ thụ và trà đồi
Các khái niệm trên cho thấy trà đồi và trà cây cổ thụ là hai loài hoàn toàn khác nhau với phương pháp trồng trọt và canh tác khác nhau, điều này tạo ra sự khác biệt lớn giữa chúng. Sự khác biệt giữa trà đồi và trà cổ thụ là các loại trà cổ thụ được trồng trong môi trường tự nhiên, hầu hết đều có tuổi đời hơn 100-300 năm. Đồng thời, trà đồi được trồng nhân tạo, chủ yếu phân bố ở vùng núi thấp và vùng trung du.
Ngoại hình: Hình Lá của cây trà cổ thụ tương đối khỏe và mảnh mai vì nó là loài Cây trà Arbor lá lớn. Nó có gân lá rõ ràng với kết cấu đáng chú ý, được bao phủ bởi những sợi lông trắng mịn. Vì trà đồi được trồng nhân tạo nên nó có lá tương đối mỏng với hình dạng tổng thể rộng & tròn búp trà đồi nhỏ hơn búp trà cổ thụ đáng kể.
Hương thơm: Những cây cổ thụ có rễ sâu và tốc độ tăng trưởng chậm mang lại cho những loại trà núi rừng này đặc tính độc đáo, có thể rất khác với trà đồi. Chè cây cổ thụ có thời gian sinh trưởng dài. Nó ở trong môi trường tự nhiên nên hương thơm sâu và nặng hơn, phức hợp lôi cuốn hơn, để lại dư vị lâu dài trong miệng. Tuy nhiên, trà đồi thường là những cây nhỏ và non hơn ổ thụ và được trồng và chăm bón trong các vườn trà nên không mang hương thơm sâu như trà cổ thụ mà thường có mùi thơm “bồng bềnh” và “nhẹ” sớm biến mất.
Hương vị: Trà cổ thụ tạo ra hương vị đậm đà hơn, và bạn cũng có thể cảm nhận được sự quyến rũ hoang dã từ núi rừng, kết hợp với vị êm dịu, đậm đà và hương vị lâu dài. Trong khi trà đồi mang lại một hương vị mỏng trong miệng, đôi khi nó thậm chí còn có một hương vị hỗn hợp, để lại cảm giác khó chịu trên lưỡi. Đối với một số loại trà đồi, mặc dù nó có vị ngọt hậu trong miệng, nhưng nó lại tạo ra vị đắng và chát hơn so với trà cổ.
Lá trà: Thông thường, lá trà cổ thụ sau khi pha sẽ căng ra tự nhiên với búp và lá trà mập mạp. Trà đồi có lá mỏng, kết cấu không đẹp bằng trà cây cổ thụ nên sẽ không dễ kéo giãn và cuộn lại với nhau sau khi pha.
Hậu vị kéo dài và bền vị: Trà cây cổ thụ mang đến hương vị êm dịu trọn vẹn. Mặc dù ban đầu nó có thể có vị nồng và đắng, nhưng nó mang lại độ sâu và có thể nhanh chóng chuyển sang vị ngọt tự nhiên, đọng lại và lưu lại trong miệng và cổ họng của chúng ta trong một thời gian dài. Mặc dù trà đồi có vị không êm dịu như trà cây cổ thụ, nhưng nó vẫn có hậu vị nhưng sẽ biến mất nhanh chóng mà không đọng lại lâu trong miệng bạn.
Hương Trà