Thị phần chè của Việt Nam tăng trong tổng lượng chè nhập khẩu của thị trường EU
Theo số liệu từ Cơ quan thống kê châu Âu (Eurostat), nhập khẩu chè của EU trong 8 tháng đầu năm 2021 đạt 127 nghìn tấn, trị giá 631,7 triệu Eur (tương đương 713,8 triệu USD), tăng 2,4% về lượng và tăng 1,3% về trị giá so với cùng kỳ năm 2020. Giá chè nhập khẩu bình quân trong 8 tháng đầu năm 2021 đạt 4.974,7 USD/tấn, giảm 1,0% so với cùng kỳ năm 2020
4 thị trường cung chè lớn nhất và chiếm hơn 10% thị phần tại thị trường EU trong 8 tháng đầu năm 2021 là Đức, Trung Quốc, Ấn Độ và Kê-ni-a. Trong đó, EU tăng mạnh nhập khẩu từ thị trường Đức trong 8 tháng đầu năm 2021, đạt 15,3 nghìn tấn, trị giá 91,9 triệu Eur (tương đương 103,9 triệu USD), tăng 44,6% về lượng và tăng 16,5% về trị giá, giá nhập khẩu bình quân chè từ Đức đạt mức cao là 6.013,2 Eur/tấn, giảm 19,4% so với cùng kỳ năm 2020. Tiếp theo là nhập khẩu từ thị trường Trung Quốc đạt 14,7 nghìn tấn, trị giá 56,9 triệu Eur (tương đương 64,3 triệu USD), giảm 3,8% về lượng và giảm 1,5% về trị giá, giá chè nhập khẩu bình quân từ Trung Quốc ở mức 3.862,3 Eur/tấn, tăng 2,4%. EU nhập khẩu chè từ thị trường Ấn Độ tăng cả về lượng và trị giá; trong khi đó nhập khẩu chè từ Kê-ni-a tăng mạnh về lượng, nhưng giá chè nhập khẩu bình quân giảm nên trị giá giảm.
Việt Nam là thị trường cung cấp chè lớn thứ 18 cho EU, lượng chè nhập khẩu từ Việt Nam trong 8 tháng đầu năm 2021 chiếm 0,7% tổng lượng chè EU nhập khẩu, tăng 0,2 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm 2020. Lượng và trị giá chè EU nhập khẩu từ Việt Nam tăng rất mạnh, trong khi đó giá chè nhập khẩu bình quân từ Việt Nam ở mức thấp so với các nước cung cấp khác, chỉ đạt 2.209,2 Eur/tấn, giảm 4,8% so với cùng kỳ năm 2020.
EU nhập khẩu chủ yếu mặt hàng chè đen và chè xanh trong 8 tháng đầu năm 2021. Trong đó, chè đen là chủng loại nhập khẩu nhiều nhất đạt 90,3 nghìn tấn, trị giá 410,4 triệu Eur (tương đương 463,7 triệu USD), tăng 1,3% về lượng, nhưng giảm 0,2% về trị giá, do giá chè đen nhập khẩu bình quân đạt 4.543,7 Eur/tấn, giảm 1,5% so với cùng kỳ năm 2020. Việt Nam chỉ cung cấp một lượng nhỏ chè đen
tới thị trường EU, tuy nhiên cả lượng và trị giá nhập khẩu từ Việt Nam đều giảm mạnh, mặc dù giá nhập khẩu tăng.
Tỷ trọng nhập khẩu chè đen của EU từ Việt Nam giảm từ mức 0,5% trong 8 tháng đầu năm 2020, xuống còn 0,4% trong 8 tháng đầu năm 2021. Tiếp theo là chủng loại chè xanh EU nhập khẩu trong 8 tháng đầu năm 2021, đạt 31,8 nghìn tấn, trị giá đạt 206,8 triệu USD, tăng 4,,6% về lượng và tăng 4,2% về trị giá so với cùng kỳ năm 2020. EU nhập khẩu chè xanh chủ yếu từ thị trường Trung Quốc trong 8
tháng đầu năm 2021, lượng chè xanh nhập khẩu từ Trung Quốc chiếm 37,7% tổng lượng chè xanh EU nhập khẩu. Tiếp theo là các thị trường Đức, Hà Lan, Ấn Độ và Ba Lan… Việt Nam là thị trường cung cấp chè xanh lớn thứ 10 cho EU, lượng và tri giá nhập khẩu chè xanh từ Việt Nam tăng rất mạnh, mặc dù giá chè nhập khẩu bình quân từ Việt Nam giảm mạnh. Tỷ trọng nhập khẩu chè xanh từ Việt Nam chiếm 1,8% tổng lượng chè xanh EU nhập khẩu, tăng 1 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm 2020.
Tình hình chè Việt Nam và thế giới tháng 11/2021
Xuất khẩu chè tháng 11/2021 giảm về lượng và trị giá so với cùng kỳ năm 2020
Theo ước tính của Cục Xuất nhập khẩu, Bộ Công Thương, xuất khẩu chè trong tháng 11/2021 đạt 11 nghìn tấn, trị giá 19 triệu USD, giảm 8,9% về lượng và giảm 4,4% về trị giá so với tháng 11/2020. Tính chung 11 tháng năm 2021, xuất khẩu chè ước đạt 116 nghìn tấn, trị giá 195 triệu USD, giảm 6,4% về lượng và giảm 2,3% về trị giá so với cùng kỳ năm 2020.
Giá chè xuất khẩu bình quân trong tháng 11/2021 ước đạt 1.720,2 USD/tấn, tăng 4,9% so với tháng 11/2020. Giá chè xuất khẩu bình quân trong 11 tháng năm 2021 ước đạt 1.6869 USD/tấn, tăng 4,4% so với cùng kỳ năm 2020.
Chè đen và chè xanh là 2 chủng loại xuất khẩu lớn nhất trong 10 tháng đầu năm 2021, chiếm 91,6% tổng trị giá xuất khẩu. Xuất khẩu chè đen và chè xanh trong 10 tháng năm 2021 đều giảm so với cùng kỳ năm 2020.
Trong 10 tháng năm 2021, xuất khẩu chè ô long tăng, đạt 286 nghìn tấn, trị giá 566 nghìn USD, tăng 29,7% về lượng và tăng 17,4% về trị giá so với cùng kỳ năm 2020. Chè ô long chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng kim ngạch xuất khẩu.
Xuất khẩu chè của Ấn Độ không đạt được mục tiêu đề ra trong năm 2021
Theo Hiệp hội chè Ấn Độ, mặc dù đã có nhiều nỗ lực, nhưng xuất khẩu chè của Ấn Độ không đạt được mục tiêu đề ra trong năm 2021. Ấn Độ đặt mục tiêu xuất khẩu 300 nghìn tấn chè trong năm 2021. Tuy nhiên, Hiệp hội ước tính xuất khẩu chè năm 2021 khó đạt mức 250 nghìn tấn. Trong năm 2020, xuất khẩu chè của Ấn Độ đạt 209 nghìn tấn, năm 2019 đạt 252 nghìn tấn.
Ước tính, sản lượng chè của Ấn Độ trong năm 2021 đạt 1,36 triệu tấn, tăng 8,2% so với năm 2020, nhưng giảm 2,2% so với năm 2019. Ấn Độ nổi tiếng về chè chất lượng cao, một phần nhỏ chè chất lượng cao được xuất khẩu với giá rất cao. Nhưng trong vài năm gần đây, chè giá rẻ và chất lượng thấp từ các nước khác nhau đã được nhập khẩu vào Ấn Độ và được trộn lẫn với chè Ấn Độ để bán ra thị trường và xuất khẩu. Theo báo cáo, trong năm 2021, nhập khẩu chè của Ấn Độ trong 8 tháng đầu năm 2021 tăng 34% so với cùng kỳ năm 2020. Trong đó nhập khẩu chè từ Nê-pan tăng 28%, từ Kê-ni-a tăng 134% so với cùng kỳ năm 2020.
Hiệp hội chè của Ấn Độ đã xem xét và kiểm soát chất lượng chè nhập khẩu. Theo đó, các nhà nhập khẩu chè phải thông báo cho văn phòng của Hiệp hội chè gần nhất về việc nhập khẩu chè trong vòng 24 giờ sau khi nhập khẩu. Hiệp hội chè sẽ thu thập các mẫu chè nhập khẩu và phân tích các mẫu đó để lấy thông tin. Hiệp hội chè Ấn Độ sẽ kiểm tra bất kỳ kho chè nào nếu thấy cần thiết.
Ngành công nghiệp chè ở Ấn Độ đang gặp nhiều khó khăn, nhưng một lợi thế mà ngành chè có được
là khoảng 80% lượng chè được tiêu thụ tại thị trường Ấn Độ. Vì vậy sự phụ thuộc của thị trường nước ngoài đối với chè Ấn Độ không cao. Tuy nhiên, ngành chè của Ấn Độ đang mở rộng ra thị trường nước ngoài để tăng lợi nhuận.
Bảo Anh