Xuất khẩu chè Việt Nam giảm cả lượng và trị giá trong tháng 9/2021
Theo ước tính của Cục Xuất nhập khẩu, Bộ Công Thương, xuất khẩu chè trong tháng 9/2021 đạt 12 nghìn tấn, trị giá 22 triệu USD, giảm 10,9% về lượng và giảm 1,2% về trị giá so với tháng 9/2020. Tính chung trong 9 tháng đầu năm 2021, xuất khẩu chè ước đạt 92 nghìn tấn, trị giá 155 triệu USD, giảm 6,3% về lượng và giảm 1,4% về trị giá so với cùng kỳ năm 2020.
Giá chè xuất khẩu bình quân trong tháng 9/2021 ước đạt 1.833,3 USD/tấn, tăng 10,9% so với tháng 9/2020. Giá chè xuất khẩu bình quân trong 9 tháng đầu năm 2021 ước đạt 1.686,2 USD/ tấn, tăng 5,2% so với cùng kỳ năm 2020.
Trong 8 tháng đầu năm 2021 chè đen và chè xanh là 2 chủng loại xuất khẩu lớn nhất với tỷ trọng chiếm tương ứng 48,3% và 44% tổng lượng chè xuất khẩu. Đáng chú ý, cả 2 chủng loại chè xuất khẩu đều tăng cả về lượng và trị giá, trong đó chè đen đạt 38,6 nghìn tấn, trị giá 53,9 triệu USD, tăng 1,6% về lượng và tăng 5,4% về trị giá, giá xuất khẩu chè đen bình quân đạt 1.397,9 USD/tấn, tăng 3,8% so với cùng kỳ năm 2020.
Tiếp theo là chủng loại chè xanh đạt 35,2 nghìn tấn, trị giá 66,6 triệu USD, tăng 1,8% về lượng và tăng 7,5% về trị giá, giá chè xanh xuất khẩu bình quân đạt 1.892,2 USD/tấn, tăng 5,6% so với cùng kỳ năm 2020. Còn một số chủng loại chè khác cũng xuất khẩu trong 8 tháng đầu năm 2021 như chè ướp hoa, chè ô long, nhưng lượng xuất khẩu những chủng loại chè này chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ trong cơ cấu mặt hàng chè xuất khẩu.
Xuất khẩu chè của Việt Nam tại Nga giảm mạnh trong 8 tháng đầu năm 2021
Theo số liệu từ Cơ quan Hải quan Nga, trong 8 tháng đầu năm 2021 Nga nhập khẩu chè đạt 103,7 nghìn tấn, trị giá 293,54 triệu USD, tăng 2,1% về lượng và tăng 9,1% về trị giá so với cùng kỳ năm 2020. Giá chè nhập khẩu bình quân đạt 2.831,3 USD/tấn, tăng 6,8% so với cùng kỳ năm 2020.
Nga nhập khẩu chè nhiều nhất từ thị trường Ấn Độ trong 8 tháng đầu năm 2021, đạt 23,1 nghìn tấn, trị giá 64 triệu USD, giảm 18,8% về lượng, nhưng tăng 1,7% về trị giá do giá tăng mạnh, đạt 2.764,6 USD/ tấn, tăng 25,2% so với cùng kỳ năm 2020.
Tiếp theo là thị trường Kê-ni-a đạt 20,9 nghìn tấn, trị giá 44,7 triệu USD, tăng 38,3% về lượng và tăng 27,7% về trị giá; Xri Lan-ca đạt 19,7 nghìn tấn, trị giá đạt 75,6 triệu USD, giảm 0,8% về lượng và giảm 1,6% về trị giá...
Việt Nam là thị trường cung cấp chè lớn thứ 5 cho Nga, lượng và trị giá nhập khẩu từ Việt Nam đều giảm trong 8 tháng đầu năm 2021, tỷ trọng nhập khẩu chè từ Việt Nam chiếm 8,2%, giảm 2,1 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm 2020.
Nga nhập khẩu chủ yếu mặt hàng chè đen và chè xanh trong 8 tháng đầu năm 2021. Trong đó, chè đen là chủng loại nhập khẩu nhiều nhất đạt 94,3 nghìn tấn, trị giá 263,5 triệu USD, tăng 1,5% về lượng và tăng 8% về trị giá, giá chè đen nhập khẩu bình quân đạt 2.793,6 USD/tấn, tăng 6,4% so với cùng kỳ năm 2020.
Việt Nam là thị trường cung cấp chè đen lớn thứ 4 cho Nga, tuy nhiên lượng và trị giá nhập khẩu từ Việt Nam giảm mạnh trong 8 tháng đầu năm 2021, mặc dù giá chè đen nhập khẩu bình quân từ Việt Nam đạt 1.738,4 USD/tấn, tăng 10% so với cùng kỳ năm 2020. Tỷ trọng nhập khẩu chè đen từ Việt Nam chiếm 8,5% tổng lượng chè đen Nga nhập khẩu, giảm 2,2 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm 2020.
Tiếp theo là chủng loại chè xanh Nga nhập khẩu trong 8 tháng đầu năm 2021, đạt 9,3 nghìn tấn, trị giá đạt 29,7 triệu USD, tăng 8,4% về lượng và tăng 19,3% về trị giá so với cùng kỳ năm 2020. Nga nhập khẩu chè xanh chủ yếu từ thị trường Trung Quốc trong 8 tháng đầu năm 2021, lượng chè xanh nhập khẩu từ Trung Quốc chiếm 83,3% tổng lượng chè xanh Nga nhập khẩu. Tiếp theo là các thị trường Xri Lan-ca, Việt Nam, In-đô-nê-xi-a…
Tình hình chè thế giới
Xri Lan-ca
Theo Hiệp hội xuất khẩu chè Xri Lan-ca, trong tháng 8/2021 sản lượng chè của Xri Lan-ca đạt 23,7 nghìn tấn, tăng 5,5% so với tháng 8/2020. Tính chung trong 8 tháng đầu năm 2021, sản lượng chè nước này đạt 211,69 nghìn tấn, tăng 18% so với cùng kỳ năm 2020.
Trong tháng 8/2021, xuất khẩu chè của Xri Lan-ca đạt 25,48 nghìn tấn, tăng 15,8% so với tháng 8/2020. Trong 8 tháng đầu năm 2021, xuất khẩu chè của Xri Lan-ca đạt 187,57 nghìn tấn,tăng 7,7% so với cùng kỳ năm 2020. Giá chè xuất khẩu bình quân trong 8 tháng đầu năm 2021 của Xri Lan-ca đạt 917,21 Rs/kg, FOB (tương đương 4,64 USD/kg, FOB), tăng 8% so với cùng kỳ năm 2020.
Xri Lan-ca xuất khẩu chè chủ yếu tới một số thị trường chính trong 8 tháng đầu năm 2021 như: I-rắc, Thổ Nhĩ Kỳ, Nga, Các Tiểu Vương Quốc Ả rập Thống nhất, Trung Quốc, I-ran…
Ấn Độ
Theo Hiệp hội chè Ấn Độ, do chi phí sản xuất tại các thị trường xuất khẩu chè thấp nên sản phẩm cạnh tranh và thu hút người mua hơn, trong khi đó chi phí sản xuất chè của Ấn Độ tăng nhanh nên khó cạnh tranh. Vì vậy, trong 10 năm qua tỷ trọng sản xuất và xuất khẩu chè của Ấn Độ không có sự thay đổi. Trong đó, tỷ trọng sản xuất chè của Ấn Độ chiếm 22% và xuất khẩu chè chiếm từ 12% đến 13% tổng lượng chè sản xuất và xuất khẩu trên thị trường thế giới.
Trong khi đó, sản xuất chè của Trung Quốc tăng từ 34% lên 45% và xuất khẩu tăng từ 16% lên 19%; tỷ trọng xuất khẩu của Kê-ni-a cũng tăng từ 24% đến 26% trong giai đoạn này
Bảo Anh