Thúc đẩy xây dựng thương hiệu, tăng giá trị cho chè xuất khẩu

Ngành chè Việt Nam, với chất lượng tốt và sự đa dạng trong sản phẩm đã dần khẳng định được vị thế trên thị trường quốc tế. Tuy nhiên, dù sản lượng chè xuất khẩu khá lớn nhưng nhiều sản phẩm vẫn thiếu sự nhận diện thương hiệu, khiến chè Việt Nam chưa thể chiếm lĩnh các thị trường lớn.

Theo số liệu từ Cục Hải quan, trong tháng 1/2025, Việt Nam xuất khẩu 9,7 nghìn tấn chè, đạt giá trị 16,4 triệu USD. Con số này giảm lần lượt 21,6% về lượng và 21,5% về giá trị so với cùng kỳ năm trước. Tuy nhiên, giá chè xuất khẩu bình quân trong tháng 1/2025 đạt 1.693,7 USD/tấn, tăng 0,2% so với tháng 1/2024. Sự giảm sút trong xuất khẩu chè trong tháng 1/2025 phần lớn do ảnh hưởng của kỳ nghỉ Tết Nguyên đán vào tuần cuối tháng, khiến hoạt động xuất khẩu bị gián đoạn.

Thúc đẩy xây dựng thương hiệu, tăng giá trị cho chè xuất khẩu - Ảnh 1

Trong tháng đầu năm 2025, Pakistan tiếp tục là thị trường nhập khẩu chè lớn nhất của Việt Nam, chiếm 35,1% tổng lượng và 38,7% tổng giá trị xuất khẩu chè. Xuất khẩu sang Pakistan đạt 3,4 nghìn tấn, trị giá 6,4 triệu USD, giảm 24,8% về lượng và 30,3% về giá trị so với cùng kỳ năm trước. Mặc dù vậy, xuất khẩu chè sang Nga lại ghi nhận mức tăng trưởng mạnh, đạt 632 tấn với tổng trị giá 1,2 triệu USD trong tháng 1/2025, tăng lần lượt 19,2% về lượng và 48,5% về giá trị. Thị trường Đài Loan (Trung Quốc) đứng ở vị trí thứ ba, đạt 713 tấn, trị giá 1,16 triệu USD, giảm 23,2% về lượng và 15,3% về giá trị.

Mặc dù Việt Nam đã xuất khẩu chè tới nhiều quốc gia và vùng lãnh thổ, việc chiếm lĩnh thị trường lớn như Hoa Kỳ vẫn gặp phải không ít thách thức. Theo Ủy ban Thương mại Quốc tế Hoa Kỳ, tổng lượng chè nhập khẩu vào Hoa Kỳ trong năm 2024 đạt 125 nghìn tấn, trị giá 556,6 triệu USD. Trong đó, Việt Nam xuất khẩu 6,8 nghìn tấn chè sang Hoa Kỳ, đạt 9,8 triệu USD, tăng 46,3% về lượng và 32,4% về giá trị so với năm trước.

Việt Nam hiện là quốc gia sản xuất và xuất khẩu chè đứng thứ 5 trên thế giới, với sản phẩm xuất khẩu tới 74 quốc gia. Việt Nam cũng đã chế biến được khoảng 15 loại chè khác nhau, trong đó chè đen và chè xanh là hai sản phẩm chủ lực, chiếm tỷ trọng lớn nhất trong xuất khẩu. Tuy nhiên, tỷ lệ xuất khẩu chè đen có xu hướng giảm dần.

Theo các chuyên gia, với mức độ cạnh tranh gay gắt từ các quốc gia sản xuất chè lớn như Ấn Độ, Trung Quốc và Kenya, Việt Nam cần cải thiện chất lượng sản phẩm và triển khai các chiến lược marketing hiệu quả để gia tăng thị phần tại các thị trường quốc tế.

Chất lượng chè Việt Nam không thua kém bất kỳ quốc gia sản xuất chè nào. Chè xanh Việt Nam, đặc biệt là từ các vùng Mộc Châu, Thái Nguyên, Suối Giàng, Hà Giang, và Ôlong Lâm Đồng, đã nhận được nhiều đánh giá cao từ khách hàng quốc tế. Tuy nhiên, để thực sự vươn lên trên thị trường chè toàn cầu, Việt Nam cần cải tiến liên tục chất lượng sản phẩm, mở rộng thị trường tiêu thụ, đặc biệt là tại các thị trường tiềm năng như Hoa Kỳ, và liên tục đổi mới các sản phẩm chè để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của người tiêu dùng.

Ông Hoàng Vĩnh Long, Chủ tịch Hiệp hội Chè Việt Nam, cho biết ngành chè Việt Nam đang phát triển theo hướng bền vững, áp dụng sản xuất theo các chứng nhận quốc tế. Một trong những điểm mạnh của Việt Nam là thổ nhưỡng và khí hậu rất phù hợp với sự phát triển của cây chè, với nhiều vùng chè đặc sản chất lượng cao như Thái Nguyên, Sơn La, và Lâm Đồng. Đặc biệt, Việt Nam có gần 20.000 ha chè shan rừng, với nhiều vùng chè shan cổ thụ hàng trăm năm tuổi.

Tuy nhiên, ông Long cũng nhấn mạnh rằng phần lớn các sản phẩm chè nổi tiếng khi xuất khẩu ra nước ngoài đến tay người tiêu dùng lại không mang thương hiệu chè Việt Nam. Nguyên nhân chủ yếu là chè Việt Nam vẫn chủ yếu xuất khẩu dưới dạng thô, chưa có thương hiệu mạnh, và các hoạt động quảng bá cho chè Việt Nam vẫn còn hạn chế.

Ông Nguyễn Quốc Mạnh, Phó Cục trưởng Cục Trồng trọt, cho biết tổng diện tích chè của cả nước hiện nay vào khoảng 122.000 ha, chủ yếu ở các địa phương như Thái Nguyên, Phú Thọ, Lâm Đồng, Nghệ An, Yên Bái, Hà Giang. Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn đã định hướng đến năm 2030, diện tích chè được chứng nhận sạch và an toàn (hữu cơ, GAP, VietGAP và tương đương) sẽ đạt hơn 70%, và ứng dụng công nghệ cao trong các khâu như tưới nước, bón phân, thu hái, bảo quản, chế biến.

Về định hướng trong tương lai, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn cho biết diện tích chè của cả nước dự báo sẽ đạt 156.000 tấn vào năm 2030, tăng trung bình 0,83% mỗi năm, với khoảng 80% sản lượng chè sẽ phục vụ cho xuất khẩu. Các thị trường chính vẫn là Pakistan, Trung Quốc, Nga, Indonesia, và hướng tới việc xuất khẩu các sản phẩm chè chất lượng cao sang thị trường EU. Giai đoạn từ nay đến năm 2030 sẽ tập trung phát triển các mặt hàng chè mới có giá trị gia tăng cao, chế biến sâu, và sản phẩm tinh chế cao cấp, được sử dụng trong các ngành thực phẩm, dược phẩm, hoặc mỹ phẩm. Đồng thời, cần tiếp tục đầu tư vào công nghệ và thiết bị hiện đại để nâng cao chất lượng sản phẩm chè.