Theo số liệu của Cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật, năm 2024 cả nước có khoảng 10.400 ha chanh leo, trong đó 8.600 ha đã cho thu hoạch, đạt năng suất bình quân 189,1 tạ/ha với tổng sản lượng 163.400 tấn. Đặc biệt, Tây Nguyên nổi lên là ‘thủ phủ’ chanh leo của cả nước khi chiếm hơn 90% diện tích và sản lượng, khẳng định vai trò vùng trồng trọng điểm quốc gia. Đây không chỉ là lợi thế cạnh tranh mà còn là nền tảng để chanh leo Việt Nam hướng tới phát triển bền vững và mở rộng thị trường xuất khẩu
Người trồng chanh leo vui mừng bởi thời gian gần đây loài cây này đạt năng suất, chất lượng và giá cả hợp lý.
Thị trường toàn cầu và cơ hội cho Việt Nam
Trên phạm vi quốc tế, chanh leo là mặt hàng đang được ưa chuộng trong xu hướng tiêu dùng lành mạnh. Nhu cầu không chỉ tập trung ở dạng quả tươi mà còn lan sang các sản phẩm chế biến như nước ép, mứt, thạch, nguyên liệu trong ngành thực phẩm chức năng. Nhiều dự báo cho thấy, quy mô thị trường chanh leo toàn cầu có thể tăng trưởng bình quân 7-8%/năm trong giai đoạn tới.
Các quốc gia Nam Mỹ như Brazil, Peru, Ecuador, Colombia hiện vẫn chiếm ưu thế về sản lượng và xuất khẩu. Tuy nhiên, biến đổi khí hậu, dịch bệnh và chi phí vận chuyển xa đã ảnh hưởng đến khả năng cung ứng của các nước này. Trong bối cảnh đó, những quốc gia có lợi thế khí hậu, đất đai và vị trí địa lý gần thị trường tiêu thụ, trong đó có Việt Nam đang đứng trước cơ hội lớn để mở rộng sản xuất và gia tăng xuất khẩu.\
Nguồn cung ứng giống chanh leo tại Tây Nguyên đã đáp ứng cơ bản nhu cầu cung cấp cho người trồng.
Theo Trung tâm Khuyến nông quốc gia, lợi thế của Việt Nam nằm ở việc có nhiều vùng sinh thái phù hợp, đặc biệt là Tây Nguyên cho năng suất và chất lượng quả đồng đều, vỏ đẹp, hương vị đậm. Thêm vào đó, vị trí địa lý gần Trung Quốc và các nước châu Á giúp giảm chi phí logistics so với nguồn hàng từ Nam Mỹ.
Sản phẩm cây chanh leo và nhiều cây trồng khác gần đây có mặt tại nhiều hội chợ trưng bảy sản phẩm nông nghiệp chất lượng cao.
Cơ hội càng rộng mở khi từ tháng 7/2022, chanh leo Việt Nam chính thức được phép xuất khẩu chính ngạch sang Trung Quốc. Không chỉ vậy, chanh leo chế biến của Việt Nam cũng đang tăng trưởng nhanh tại thị trường EU và đang trong quá trình tiếp cận Mỹ, Australia, New Zealand. Đây là những thị trường khó tính nhưng đầy tiềm năng.
Việt Nam vươn lên từ diện tích đến chất lượng
Trong chưa đầy một thập kỷ, diện tích chanh leo của Việt Nam đã tăng gấp nhiều lần. Từ hơn 1.500 ha năm 2015, nay cả nước đã có trên 10.000 ha, tập trung chủ yếu ở Tây Nguyên và một phần tại các tỉnh miền núi phía Bắc như Sơn La, Nghệ An. Năng suất cũng cải thiện rõ rệt nhờ áp dụng giống mới và quy trình kỹ thuật.
Tuy nhiên, sự phát triển nhanh cũng kéo theo nhiều thách thức. Năng suất và chất lượng giữa các vùng chênh lệch khá lớn, trong khi Tây Nguyên có nơi đạt 50-60 tấn/ha thì ở một số tỉnh phía Bắc, con số này chỉ dừng ở mức 10-15 tấn/ha. Điều này cho thấy việc mở rộng diện tích chưa gắn chặt với kiểm soát chất lượng và quy trình đồng bộ.
Ngoài ra, chanh leo là cây trồng rất mẫn cảm với sâu bệnh. Nhiều diện tích bị giảm tuổi thọ vườn cây do chưa tuân thủ quy trình canh tác bền vững, giống chưa đảm bảo, dẫn đến năng suất giảm sau vài năm thu hoạch.
Theo thống kê của Cục Trồng trọt, dù năng suất bình quân toàn quốc năm 2024 đạt gần 19 tấn/ha, song vẫn còn nhiều diện tích nhỏ lẻ chưa đạt chuẩn, khó đáp ứng yêu cầu xuất khẩu chính ngạch. Điều này đòi hỏi sự điều chỉnh chiến lược là không chỉ chạy theo mở rộng diện tích mà cần tập trung nâng cao chất lượng, truy xuất nguồn gốc và chế biến sau thu hoạch.
Tại Tọa đàm “Giải pháp phát triển chuỗi liên kết sản xuất, tiêu thu chanh leo bền vững” diễn ra mới đây tại tỉnh Đắk Lắk, ông Hoàng Văn Hồng, Phó Giám đốc Trung tâm Khuyến nông quốc gia, cho hay: “Chanh leo đang có lợi thế lớn tại Tây Nguyên và một số vùng khác, nhưng nếu không tổ chức sản xuất theo chuỗi và tuân thủ quy trình kỹ thuật thì khó giữ vững thị trường lâu dài. Đây là cây trồng có tiềm năng xuất khẩu, nhưng cũng rất nhạy cảm với dịch bệnh, nên phát triển bền vững phải đặt lên hàng đầu”.
Thông tin trao đổi tại Toạn đàm trên, nhiều đại biểu khẳng định, trong những năm gần đây, việc xuất khẩu chính ngạch quả chanh lao sang Trung Quốc và EU đã chứng minh sức hút của chanh leo Việt Nam đối với các thị trường lớn quốc tế. Tuy nhiên, nhiều chuyên gia khuyến cáo, để tận dụng cơ hội mở cửa các thị trường cao cấp, ngành hàng này cần tiếp tục chuẩn hóa vùng trồng, áp dụng các tiêu chuẩn VietGAP, GlobalGAP, hữu cơ, đồng thời gắn chặt với các doanh nghiệp chế biến và xuất khẩu.
Tây Nguyên- “thủ phủ” chanh leo và định hướng bền vững
Trong bức tranh phát triển chanh leo, Tây Nguyên nổi bật với vai trò là trung tâm sản xuất lớn nhất cả nước. Theo thống kê của Cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật, khu vực này có khoảng 9.000 ha chanh leo, chiếm hơn 90% diện tích toàn quốc; sản lượng đạt trên 150.000 tấn/năm. Địa phương dẫn đầu là tỉnh Gia Lai, tiếp đến là tỉnh Đắk Lắk, tỉnh Kon Tum (cũ) và một phần tỉnh Đắk Nông (cũ).
Đại diện cơ quan chức năng tham quan khu vực trồng chanh leo tại Đắk Lắk.
Điều kiện tự nhiên đặc thù của Tây Nguyên với đất đỏ bazan màu mỡ, khí hậu mát mẻ, mùa khô kéo dài đã mang lại lợi thế vượt trội cho cây chanh leo. Nhờ vậy, sản phẩm nơi đây có vỏ bóng, màu sắc đồng đều, hương vị đậm đà và dễ dàng đạt tiêu chuẩn xuất khẩu. Chính yếu tố này đã thu hút nhiều doanh nghiệp chế biến, xuất khẩu đặt cơ sở thu mua và đóng gói ngay tại địa phương.
Tuy nhiên, tiềm năng lớn cũng đi kèm thách thức. Biến đổi khí hậu khiến thời tiết thất thường, một số vùng ghi nhận dịch bệnh trên diện rộng; chi phí vật tư tăng cao; sản xuất manh mún, khó kiểm soát chất lượng đồng đều.
Ông Nguyễn Văn Thái Bình, Giám đốc HTX Nông nghiệp công nghệ cao Xanh Cao Nguyên (Đắk Lắk), chia sẻ: “Mỗi thị trường có yêu cầu khác nhau: EU cần chứng chỉ và mã vùng, Nga ưa chuộng quả to, còn Mỹ và Australia lại khắt khe về bảo quản. Nếu không gắn sản xuất với yêu cầu thị trường ngay từ đầu, thì khó phát triển lâu dài.”
Thực tế cho thấy, dù Tây Nguyên đã là “thủ phủ chanh leo” nhưng tổ chức sản xuất còn rời rạc, nhiều hộ dân chưa có hợp đồng bao tiêu, dẫn tới tình trạng “được mùa mất giá”. Vì vậy, việc xây dựng chuỗi liên kết nông dân – hợp tác xã – doanh nghiệp – đơn vị chế biến đang trở thành nhu cầu cấp thiết.
Theo ông Hoàng Văn Hồng, để phát triển bền vững, Tây Nguyên cần tập trung vào ba khâu trọng yếu: nghiên cứu giống chanh leo kháng bệnh, năng suất cao; hoàn thiện quy trình kỹ thuật và quản lý vùng trồng; đầu tư chế biến sâu để giảm thất thoát sau thu hoạch và nâng cao giá trị gia tăng.
Song song với nỗ lực của nông dân và doanh nghiệp, chính sách hỗ trợ từ các cơ quan quản lý đóng vai trò quan trọng: đơn giản hóa thủ tục cấp mã số vùng trồng, chứng nhận VietGAP, hỗ trợ tín dụng dài hạn, đồng thời xúc tiến thương mại và mở cửa thị trường mới.
Nếu tháo gỡ được những “điểm nghẽn” này, Tây Nguyên không chỉ giữ vững vai trò đầu tàu sản xuất chanh leo của cả nước mà còn có thể vươn lên thành trung tâm cung ứng chanh leo chất lượng cao cho toàn khu vực Đông Nam Á.
Bài, ảnh: ĐÌNH TĂNG