Chè Đông Giang xanh bạt ngàn nơi triển núi
Ngày xưa, chè xanh (hay còn gọi là chè tươi) là loại thức uống phổ biến của mọi tầng lớp cư dân xứ Quảng Nam. Cách pha chế cũng thật giản dị mà cầu kỳ: chè hái về, rửa sạch, bỏ vào ấm đun sôi. Đun thế nào để nước ngả màu xanh đậm, sóng sánh quánh đặc mới đúng cách. Người ta rót ra bát sành, uống khi còn nong nóng, bởi nếu để nguội, hương vị sẽ kém ngon đi nhiều. Thói quen ấy gắn liền với nếp sinh hoạt của biết bao thế hệ gia đình nông dân nơi đây. Buổi sáng, trước khi ra đồng, các cụ già thường rót một ấm chè thật đặc, thong thả hút thêm một điếu thuốc Cẩm Lệ- thứ thuốc lá thơm nức, đặc sản của vùng Cẩm Lệ xưa để bắt đầu ngày lao động.
Du khách tham gia hái chè cùng người dân vùng chè Đông Giang.
Điều đặc biệt là trong nhiều làng quê Quảng Nam xưa, người dân không gọi “uống trà” như cách nói phổ biến mà lại gọi một cách mộc mạc là “uống chè”, “chè lá”. Ngôn từ ấy phản ánh sự gần gũi, thân thuộc của loại thức uống này trong đời sống thường nhật. Cụ già, nông dân, người lao động… ai ai cũng có thể tìm thấy sự sảng khoái trong một bát chè xanh nóng, thứ nước uống vừa dân dã vừa chân tình.
Trong ký ức của nhiều thế hệ, hình ảnh chiếc bình tích bằng gốm đựng chè là một nét đẹp khó phai. Những chiếc bình tích ấy thường được làm bằng gốm tráng men, với lớp men ngả màu ngọc bích, trên thân bình in hoa văn rồng bay phượng múa hoặc những họa tiết dân gian tinh tế.
Bình ích chè được ủ trong vỏ quả dừa vừa đẹp mắt, vừa giữ độ nóng kéo dài cả ngày của người dân xứ Quảng
Để giữ cho nước chè nóng cả ngày, người ta còn nghĩ ra cách ủ bình trà trong vỏ quả dừa được khoét đục rất vừa vặn, mài nhẵn bóng bẩy, hoặc trong những giỏ đựng bện bằng rơm, nứa, tre… được làm thủ công công phu. Nhờ vậy, nước chè trong bình tích vừa giữ được độ nóng, vừa thêm vẻ đẹp mộc mạc, gần gũi. Có khi, chỉ cần một bình tích ủ chè như thế, người già trong làng đã có thể nhâm nhi suốt ngày, vừa uống vừa chuyện trò cùng con cháu, láng giềng. Những vật dụng ấy không chỉ là đồ dùng thường nhật mà còn là sản phẩm mỹ nghệ dân gian, phản ánh sự khéo léo, tinh xảo và óc sáng tạo của người dân quê xứ Quảng.
Bình chè được ủ trong giỏ mây tre
Chè xanh còn gắn liền với không gian sinh hoạt cộng đồng. Trong những năm tháng làm hợp tác xã nông nghiệp, mỗi buổi lao động tính công điểm, giờ nghỉ giải lao giữa cánh đồng, các cụ cao niên hay bà con thường mời nhau bát chè xanh nóng hổi. Tại các buổi họp dân, họp tổ đội quay công, hay trong những buổi nói chuyện, động viên, chia tay thanh niên lên đường nhập ngũ bát nước chè cũng trở thành thứ “chất keo” gắn kết tình làng nghĩa xóm. Không chỉ thế, trong những buổi chia tay con cháu đi xa làm ăn, tiễn người thân lên đường đến vùng kinh tế mới ở Tây Nguyên, hay trong các dịp lễ hội, tiệc cưới, đám tang…, chén chè xanh cũng không thể thiếu. Nó vừa giản dị, vừa thiêng liêng, là biểu tượng cho sự sẻ chia, chúc phúc và đồng cảm. Có thể nói, chè hiện diện trong hầu như mọi sự kiện lớn nhỏ của đời sống cộng đồng, trở thành sợi chỉ nối kết tình cảm con người trong suốt hành trình cuộc đời.
Người Quảng Nam cũng có niềm tự hào riêng về những vùng chè nổi tiếng. Ở Tiên Phước, vùng trung du với khí hậu mát lành, chè xanh nơi đây từ lâu đã được biết đến bởi vị đậm, hương thơm quyện. Người dân quê thường bảo, có chè Tiên Phước trong buổi gặp mặt thì câu chuyện thêm vui vẻ, chân tình. Xa hơn nữa, vùng Đông Giang với những đồi chè trải dài cũng là nơi tạo nên một nguồn chè quý, góp phần làm phong phú thêm văn hóa trà xứ Quảng. Và không thể không nhắc tới Nông trường chè Quyết Thắng- một địa danh từng in dấu tuổi trẻ của ông Nguyễn Bá Thanh, người con ưu tú của Quảng Nam- Đà Nẵng. Chính những vùng chè ấy, qua bao thăng trầm đã trở thành biểu tượng vừa của kinh tế nông nghiệp, vừa của văn hóa ẩm thực địa phương.
Thế nhưng, theo dòng chảy của thời gian, thói quen uống chè xanh dần thay đổi. Ở các đô thị, thị xã, thị trấn, thành phố, người dân ngày nay đã quen với những loại trà gói, trà hộp đủ nhãn hiệu và kiểu dáng khác nhau, tiện lợi hơn trong nhịp sống hiện đại. Lớp trẻ ít còn gắn bó với chè tươi như cha ông. Thú uống chè xanh hiện nay phần nhiều vẫn còn duy trì trong lớp người cao tuổi hoặc ở các vùng quê nông thôn. Ấy vậy mà, sự hiện diện bền bỉ của nó lại chính là minh chứng cho sức sống văn hóa lâu dài, không dễ gì phai nhạt.
Bình tích trà từ gốm xanh pha màu ngọc bích, trên thân bình có hoa văn là các hình ảnh dân gian giàu bản sắc
Nhìn từ hiện tại, việc gìn giữ thói quen uống chè xanh không chỉ mang ý nghĩa hoài niệm. Đó còn là cách bảo tồn một nếp sống, một giá trị văn hóa đặc sắc của xứ Quảng. Giữ gìn không chỉ là giữ thói quen mà còn là chăm lo phát triển những vùng đất trồng chè truyền thống. Bởi cây chè không chỉ cho ra những lá xanh nấu nước giải khát, mà còn gắn với sinh kế, với ký ức của bao thế hệ nông dân. Việc khôi phục, phát triển các vùng chè như Tiên Phước, Đông Giang, Quyết Thắng… sẽ vừa tạo thêm giá trị kinh tế, vừa duy trì được bản sắc văn hóa.
Có thể nói, chè xanh của người Quảng Nam không chỉ là thức uống mà là một “chứng nhân” của lịch sử đời thường. Nó chứng kiến những mùa vụ trên đồng ruộng, những ngày hợp tác xã lao động rộn rã, những buổi họp đội, xóm, những phút chia tay đầy lưu luyến hay những ngày hội làng. Nó góp phần nuôi dưỡng tinh thần cộng đồng, kết nối con người trong tình làng nghĩa xóm. Trong dòng chảy của xã hội hiện đại, khi nhịp sống gấp gáp dễ cuốn đi nhiều giá trị truyền thống thì việc nâng niu, trân trọng, gìn giữ văn hóa uống chè xanh chính là cách để mỗi người dân xứ Quảng thêm một lần tự hào về bản sắc quê hương mình.
Bát nước chè nóng hổi, bình tích men gốm in hoa văn tinh tế được ủ trong vỏ dừa hoặc giỏ rơm, nứa tre thủ công, những câu chuyện vui buồn bên ấm chè… tất cả đã trở thành một phần ký ức tập thể của người Quảng Nam. Đó là ký ức vừa bình dị, vừa sâu xa, nhắc nhở chúng ta về sự gắn bó bền chặt giữa con người và mảnh đất này, từ trong từng ngụm chè xanh dân dã mà chan chứa nghĩa tình.
ĐÌNH TĂNG