Báo cáo ước tính chi tiết các vấn đề về thiên tai mà người dân, các ngành nghề kinh tế cơ bản, cơ sở hạ tầng, dịch vụ công…ven biển Việt Nam đang phải đối mặt.
Báo cáo cho biết, khoảng hơn 11 triệu người ven biển đang gặp rủi ro cao do lũ lớn và hơn 35% khu dân cư đang nằm trong khu vực sạt lở và tiềm ẩn sụt lở.
Có một số việc như khai thác nước ngầm, khai thác cát, xây dựng hạ tầng, khai thác du lịch... không theo quy hoạch sẽ làm gia tăng rủi ro thiên tai. Theo báo cáo, mỗi năm, ngành nông nghiệp, nuôi trồng thủy hải sản, công nghiệp và du lịch tại Việt Nam bị thiệt hại hàng trăm triệu đô la Mỹ, hàng trăm nghìn lao động bị mất việc việc do ảnh hưởng của lũ sông và lũ ven biển. Gần 1/3 các cơ sở y tế công, khoảng 11% các trường học phải đối mặt với ngập lụt, làm gián đoạt khả năng cung cấp dịch vụ công thiết yếu nhất cho người dân.
Với tình hình biến đổi khí hậu tăng cao, mực nước biển, theo tính toán, dự kiến sẽ tăng 30 cm vào năm 2050 và 70 cm vào năm 2100 so với hiện nay.
Khu vực ven biển Việt Nam – Phát triển Kinh tế và giảm thiểu rủi ro thiên tai phải luôn đồng hành: gần một phần ba đường bờ biển là khu đô thị hoặc khu dân cư, các tỉnh ven biển là nơi sinh sống của khoảng một nửa dân số Việt Nam (khoảng 46,6 trệu người), đóng góp khoảng 60% tổng sản phẩm quốc nội (GDP) toàn quốc năm 2016, là động lực chính cho tăng trưởng của cả nước. Tuy nhiên, thiên tai tiếp tục là mối đe dọa lớn nhất đối với các vùng này.
Nhiều khu vực ở Thừa Thiên – Huế và Quảng Ngãi, được hình thành trên các cồn cát, nên rất dễ bị sụt lở. Một số vùng tại đây, biển đã xâm thực tới cả 300m, nhiều hộ dân phải di dời, sinh kế của họ bị ảnh hưởng nghiêm trọng.
Theo World Bank, khoảng 62% đầm nuôi trồng thủy hải sản đồng bằng ven biển Việt Nam có nguy cơ lũ lụt nghiêm trọng, chủ yểu tập trung ở đồng bằng sông Cửu Long.
Xâm thực bờ biển ảnh hưởng nghiêm trọng đến các khu đô thị, các khu du lịch, khu nghỉ dưỡng và các khách sạn… ven biển. Cụ thể: gần một phần năm các khách sạn ven biển nằm cạnh các điểm sạt lở từ 20m trở lên trong khoảng thời gian từ năm 1990 đến năm 2015, mà điển hình là tại thành phố Nha Trang.
Khoảng một nửa trong số 127 khu công nghiệp ở các tỉnh ven biển cũng phải đối mặt với nguy cơ lũ lụt. Một số nơi tiềm ẩn nguy cơ lũ lụt cao: trận lụt mới đây tại tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, lớn nhất trong vòng 100 năm, đã làm cho 9 trên tổng số 14 khu công nghiệp bị thiệt hại, ảnh hưởng đến khoảng 34.000 lao động và nhiều hạ tầng cơ sở.
Cũng theo báo cáo, chỉ khoảng 19% dân cư ven biển là ở khu vực ổn định, hơn một phần ba đã bị ảnh hưởng do sạt lở và gần một nửa bị ảnh hưởng do bồi tụ.
Các nghiên cứu cho thấy, sạt lở chủ yếu do các hoạt động của con người như khai thác quá mức, quy hoạch cơ sở hạ tầng còn yếu và nhiều khi được xây dựng trên các vùng sinh thái nhạy cảm.
Báo cáo đề xuất các giải pháp:
Một là, thiết lập và tăng cường hệ thống quản lý, sử dụng dữ liệu cũng như công cụ ra quyết định tích hợp. Cơ sở dữ liệu được quản lý tập trung sẽ giúp các bên liên quan đánh giá được mức độ cần bảo vệ và nguy cơ rủi ro cao. Hệ sinh thái ven biển được bản đồ hóa và được giám sát có hệ thống sẽ giúp cho việc phục hồi hoặc bảo tồn rừng ngập mặn, rặng san hô, cồn cát, bãi biển, hệ sinh thái một cách hiệu quả.
Hai là, thực thi triệt để công tác quy hoạch ven biển dựa trên việc phân tích kỹ lưỡng về rủi ro thiên tai, đảm bảo phát triển dài hạn và bền vững.
Ba là, tăng cường khả năng chống chịu của hệ thống cơ sở hạ tầng cũng như các dịch vụ công. Mặc dù hệ thống đê điều của Việt Nam đang bảo vệ tương đối hữu hiệu cư dân và tài sản khu vực ven biển, nhưng dọc theo bờ biển vẫn có rất nhiều điểm nóng có thể bị ảnh hưởng cao bởi thiên tai. Cần đẩy mạnh các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng quan trọng ứng phó với thiên tai, đồng thời nâng cấp, duy tu các hệ thống sẵn có, áp dụng các tiêu chuẩn an toàn tương ứng với cấp độ rủi ro thiên tai và quy mô dân số.
Bốn là, tận dụng các giải pháp dựa vào thiên nhiên. Việc khai thác quá mức và xây dựng nhiều cơ sở hạ tầng nhân tạo trong những thập kỷ qua đã khiến cho hệ sinh thái bị suy kiệt, vì vậy, cần xây dựng chính sách và khung pháp lý chuyên biệt về bảo tồn, khôi phục và phát triển hệ sinh thái.
Năm là, nâng cao năng lực phòng ngừa, ứng phó với thiên tai và phục hồi hệ sinh thái. Việt Nam cần một hệ thống khí tượng thủy văn tích hợp về truyền tải dữ liệu - phân tích và dự báo - truyền tin và cảnh báo sớm để chuyển tải các thông tin kỹ thuật có độ chính xác cao thành các thông tin có giá trị thực tiễn và hiệu quả cao.
Cuối cùng, nếu Việt Nam vẫn tiếp tục xu hướng phát triển kinh tế nhanh ở các khu vực có nguy cơ rủi ro về thiên tai cao như hiện nay thì thiệt hại do thiên tai sẽ gia tăng. Đã đến lúc Việt Nam cần có cách tiếp cận tốt hơn nhằm cân bằng giữa cơ hội và rủi ro để các khu vực ven biển vẫn tiếp tục là động lực tăng trưởng bền vững của đất nước, đồng thời vẫn đảm bảo khả năng chống chịu được với các cú sốc thiên tai trong tương lai.
Phan Tuấn (t/h)