Trên những triền đồi thoai thoải của xã Bình Thuận, tỉnh Sơn La, sắc xanh mướt của những luống chè trải dài như những dải lụa, gợi cảm giác yên bình nhưng ẩn chứa sức sống mãnh liệt. Ít ai biết, cây chè đã bén rễ nơi đây từ những năm 60 của thế kỷ trước, khi những người dân từ Thái Bình lên khai hoang lập nghiệp, mang theo niềm tin và kinh nghiệm canh tác từ quê hương. Trải qua hơn nửa thế kỷ, cây chè Bình Thuận không chỉ là nguồn sống, mà còn trở thành thương hiệu góp mặt ở nhiều thị trường trong và ngoài nước.
Xã Bình Thuận hiện có gần 1.000 ha chè, chủ yếu giống Kim Tuyên thơm thanh khiết và Shan Tuyết búp trắng, nước xanh ngọc, hậu ngọt.
Vùng chè rộng lớn, giống quý và sản lượng cao
Hiện nay, xã Bình Thuận có gần 1.000 ha chè, tập trung tại các bản Kiến Xương, Noong Lào, Quỳnh Châu, Quỳnh Tiên Hưng và Mường Chiến. Hai giống chủ lực là Kim Tuyên, nổi tiếng với hương thơm thanh khiết, và Shan Tuyết, loại chè cổ thụ có búp phủ lông tơ trắng, cho nước xanh ngọc và vị hậu ngọt. Từ đầu năm, nông dân toàn xã đã thu hoạch trên 5.000 tấn chè búp tươi, với giá bán bình quân 8.000 đồng/kg, đem lại nguồn thu ổn định cho hàng trăm hộ.
Đại diện HTX sản xuất, kinh doanh và dịch vụ tổng hợp Bình Thuận (bên phải) trao đổi kỹ thuật hái chè với các hộ liên kết sản xuất.
Điểm khác biệt của chè Bình Thuận không chỉ nằm ở giống, mà còn ở cách chăm sóc và chế biến. Các hộ dân, hợp tác xã và doanh nghiệp đã liên kết chặt chẽ từ khâu trồng, chăm sóc, thu hái đến chế biến, giúp sản phẩm đạt độ đồng đều cao về chất lượng. Nhờ đó, nước chè giữ được màu xanh tự nhiên, hương nhẹ, vị thanh, khiến người thưởng trà dễ dàng nhận ra sự khác biệt so với chè ở vùng khác.
Năng suất gắn liền thu nhập bền vững
Gia đình anh Lò Văn Hươi ở bản Lóm Púa là một ví dụ tiêu biểu. Với hơn 1 ha chè Kim Tuyên, được Công ty TNHH Trà Thu Đan hướng dẫn kỹ thuật chăm sóc, anh thu hoạch đều đặn hơn 1 tấn chè búp tươi từ đầu vụ, bán với giá 8.000–11.000 đồng/kg. Nhờ thời tiết thuận lợi, năng suất ước đạt trên 15 tấn/ha, sau khi trừ chi phí, gia đình thu về gần 90 triệu đồng/ha, một con số đáng kể đối với kinh tế nông thôn miền núi.
Hiện, xã Bình Thuận có bốn đơn vị thu mua và chế biến chè quy mô lớn, gồm HTX sản xuất, kinh doanh và dịch vụ tổng hợp Bình Thuận; Công ty TNHH Trà Thu Đan; Công ty TNHH nông sản Thân Nga; và HTX chè Chiềng Pha. Sự hiện diện của các đơn vị này không chỉ đảm bảo đầu ra ổn định, mà còn thúc đẩy người dân cải thiện quy trình sản xuất để đáp ứng yêu cầu chất lượng.
Thương hiệu vàng giữa thị trường rộng mở
HTX sản xuất, kinh doanh và dịch vụ tổng hợp Bình Thuận hiện liên kết với hơn 400 hộ dân, bao tiêu gần 500 ha chè. Sản phẩm của HTX đã được chứng nhận là sản phẩm công nghiệp nông thôn tiêu biểu cấp tỉnh, và được Tổng hội Nông nghiệp & Phát triển nông thôn Việt Nam vinh danh “Thương hiệu vàng nông nghiệp Việt Nam” năm 2019. Từ đầu năm, HTX xuất bán hơn 50 tấn chè thành phẩm đến Hà Nội, Thái Nguyên, Phú Thọ, cùng nhiều địa phương khác.
Cán bộ Trạm Kỹ thuật nông nghiệp khu vực III hướng dẫn kỹ thuật thu hái chè cho người dân bả Noong Lào, xã bình Thuận.
Không chỉ dừng ở thị trường nội địa, chè Bình Thuận đã xuất khẩu sang Nhật Bản, Trung Quốc, Đài Loan, những thị trường khó tính, đòi hỏi tiêu chuẩn cao. Hiện, hai sản phẩm chủ lực là chè của Công ty TNHH Trà Thu Đan và chè Trọng Nguyên của HTX Bình Thuận đều đạt chuẩn OCOP 4 sao cấp tỉnh, góp phần nâng tầm thương hiệu chè Việt.
Hướng tới chè sạch, gắn với du lịch trải nghiệm
Theo bà Cà Thị Ngọc, Phó Chủ tịch UBND xã Bình Thuận, để nâng tầm thương hiệu, xã đang khuyến khích doanh nghiệp trong và ngoài địa phương đầu tư, liên kết sản xuất và tiêu thụ; đồng thời hướng dẫn người dân áp dụng quy trình VietGAP, tiến tới sản xuất hữu cơ. Không chỉ là cây trồng kinh tế, chè còn được kỳ vọng trở thành điểm nhấn trong phát triển du lịch trải nghiệm, nơi du khách có thể tham quan, thu hái, chế biến và thưởng thức chè ngay tại nương.
Bên cạnh sự hỗ trợ của chính quyền, yếu tố quyết định nằm ở việc người dân sẵn sàng thay đổi tư duy sản xuất, coi chất lượng và uy tín là nền tảng để giữ vững thương hiệu. Sự kết hợp giữa kiến thức bản địa, kỹ thuật hiện đại và chiến lược tiếp thị phù hợp sẽ giúp chè Bình Thuận không chỉ là sản phẩm nông sản, mà là một câu chuyện văn hóa, gắn với đất và người nơi đây.
Từ những ngày đầu đặt những gốc chè non xuống mảnh đất còn hoang sơ, đến nay, chè Bình Thuận đã đi qua một hành trình dài. Hành trình ấy có mồ hôi của người nông dân, có dấu ấn của doanh nghiệp, và cả sự định hướng của chính quyền địa phương. Giữa nhịp sống hiện đại, ly trà xanh từ nương chè Bình Thuận vẫn giữ nguyên sự tinh khiết, như gửi gắm cả tâm huyết và niềm tự hào của vùng đất.
Với vùng nguyên liệu rộng lớn, giống chè chất lượng, kỹ thuật sản xuất tiên tiến và thị trường ngày càng mở rộng, chè Bình Thuận đang khẳng định vị thế trên bản đồ nông sản Việt Nam. Mỗi búp chè xanh không chỉ mang lại thu nhập cho người dân, mà còn góp phần xây dựng thương hiệu địa phương, một thương hiệu xanh, bền vững và đầy triển vọng.