Có những vùng đất không chỉ được thiên nhiên ưu ái mà còn mang trong mình một sứ mệnh đặc biệt lưu giữ hương vị. Với B’Lao, vùng cao nguyên mờ sương nằm giữa lòng Lâm Đồng, sứ mệnh ấy chính là chắt lọc hương đất, gói hương trời và chưng cất cái tình người vào từng cánh trà. Trà B’Lao không chỉ là thức uống, mà là một bản giao hưởng của thổ nhưỡng, khí hậu, di sản văn hóa và tinh thần lao động cần mẫn, tạo nên một trong những dòng trà ướp hương tinh tế bậc nhất phương Nam.
Trà B’Lao không chỉ là thức uống, mà là một bản giao hưởng của thổ nhưỡng, khí hậu, di sản văn hóa và tinh thần lao động cần mẫn, tạo nên một trong những dòng trà ướp hương tinh tế bậc nhất phương Nam.
Nhìn lại lịch sử, cây trà đã bén rễ trên đất B’Lao từ những năm 1930, khi người Pháp bắt đầu mở những đồn điền như Felit B’Lao, B’Lao Sierre… để phục vụ sản xuất trà đen xuất khẩu sang châu Âu. Những cánh rừng nguyên sinh được thay thế bằng các luống trà ngút ngàn, báo hiệu cho sự hình thành một ngành nông nghiệp mới trên vùng đất đỏ bazan màu mỡ.
Đến đầu thập niên 1950, người Hoa và người Việt bắt đầu lập các rẫy trà quy mô nhỏ, mở đầu cho giai đoạn trà trở thành kế sinh nhai của nhiều hộ dân tại Bảo Lộc – B’Lao. Đến năm 1955-1956, cùng với các chính sách định cư, người nông dân khắp nơi đổ về đây, mang theo kinh nghiệm, niềm tin và cả tình yêu dành cho cây trà. Dần dà, nơi này hình thành một cộng đồng người trồng, chế biến và sống với nghề trà. Từ các trại định cư, vườn trà mọc lên, chợ B’Lao trở thành điểm tụ hội của những đọt trà non đầu mùa, nơi hương vị được đánh thức từ bàn tay con người.
Ướp hương là một nghệ thuật. Người B’Lao dùng những loài hoa mỏng manh nhưng nồng nàn như hoa sói, hoa lài, hoa sen để truyền hương vào trà.
Khác với các vùng trồng trà nổi tiếng ở miền Bắc như Thái Nguyên, Hà Giang hay Sơn La nơi trà được sao suốt không ướp hương, trà B’Lao lại đi theo một lối riêng: cầu kỳ trong từng công đoạn và tinh tế trong việc “hái hương” ướp hoa vào trà để tạo nên hương vị riêng biệt.
Với độ cao trên 800m, khí hậu mát mẻ quanh năm, độ ẩm cao và sương mù thường xuyên bao phủ, B’Lao sở hữu những điều kiện lý tưởng cho cây trà sinh trưởng. Đặc biệt, đất bazan giàu khoáng chất kết hợp với mưa nhiều khiến trà nơi đây mang vị chát dịu, không gắt, hậu ngọt và ít đắng rất hợp khẩu vị người phương Nam.
Tuy nhiên, để có được một chén trà B’Lao đúng điệu, thổ nhưỡng là chưa đủ. Yếu tố quyết định còn nằm ở kỹ thuật chế biến và bí quyết ướp hương vốn là tinh hoa được truyền lại qua nhiều thế hệ.
Trà B’Lao truyền thống bắt đầu từ những đọt trà non thường là búp trà hái theo tiêu chuẩn “một búp hai lá”, được thu hoạch vào sáng sớm để giữ nguyên hương vị tự nhiên. Ngay sau khi hái, trà được “luộc” tức trụng nhanh qua nước sôi để làm ngưng quá trình lên men tự nhiên, sau đó ép cho ráo nước, vò nhẹ để tạo hình và sấy khô bằng than hồng. Giai đoạn này tạo nên trà mộc nền tảng để ướp hương.
Ướp hương là một nghệ thuật. Người B’Lao dùng những loài hoa mỏng manh nhưng nồng nàn như hoa sói, hoa lài, hoa sen để truyền hương vào trà. Mỗi loại hoa đều có lịch hái riêng hoa sói được hái lúc sáng sớm khi vừa nở, hoa lài lại phải chờ chiều tối khi hương bắt đầu ngào ngạt nhất. Hoa được trộn vào trà và ủ trong vài tiếng đến vài ngày, tùy vào yêu cầu về độ đậm nhạt của mùi hương. Sau đó, trà được sấy lại để giữ mùi, và công đoạn này đòi hỏi người thợ phải cực kỳ tinh tế trong việc điều chỉnh nhiệt độ và thời gian chỉ cần chênh lệch vài độ là trà có thể mất hương hoặc cháy khét.
Một số nghệ nhân còn ướp trà với quế, cam thảo, tiểu hồi, đại hồi… không chỉ để gia tăng hương vị mà còn bổ sung các thành phần có lợi cho sức khỏe. Mỗi mẻ trà là một sự giao thoa giữa khoa học, nghệ thuật và bản sắc cá nhân của người làm.
Không đơn thuần là một sản phẩm tiêu dùng, trà B’Lao là một phần ký ức của người miền Nam, một thức quà không thể thiếu trong dịp lễ Tết hay những buổi đón khách thân tình. Những thương hiệu như Văn Hương Làn Hương, Đỗ Hữu, Ngọc Trang… đều gắn thêm hai chữ “B’Lao” sau tên để khẳng định xuất xứ và chất lượng. Đặc biệt, Văn Hương một thương hiệu ra đời từ những năm 1960, đã góp phần mang danh tiếng trà B’Lao đi khắp miền Nam và trở thành biểu tượng của cả vùng đất này.
Ngày nay, Bảo Lộc không chỉ là trung tâm sản xuất chè lớn nhất phương Nam mà còn là nơi phát triển mạnh các mô hình du lịch nông nghiệp nơi du khách có thể trực tiếp tham gia hái trà, ướp trà, thưởng trà và cảm nhận trọn vẹn hương vị của một vùng đất được mệnh danh là “thủ phủ trà hoa” của miền Nam Việt Nam.
Không giống sự trầm mặc của trà đạo Nhật hay phong cách thanh nhã của trà chiều Anh quốc, trà B’Lao mang chất mộc mạc, dân dã nhưng không kém phần tinh tế. Chén trà nơi đây không chỉ để giải khát mà còn là lời chào, là kết nối giữa con người với nhau và với thiên nhiên. Trong mỗi gia đình Bảo Lộc, bình trà nóng đặt giữa nhà không chỉ để tiếp khách mà còn là biểu tượng của sự ấm cúng, lòng hiếu khách và sự trân trọng với thiên nhiên.
Có lẽ vì vậy, khi nhấp một ngụm trà B’Lao, người ta không chỉ cảm được vị chát nhẹ và hậu ngọt, mà còn thấy được cả một vùng đất đang thì thầm kể chuyện. Câu chuyện của những sớm mai hái trà, những chiều ướp hương và những đêm thức cùng lửa than để canh từng mẻ sấy.
“B’Lao, vùng đất hái hương về trong mỗi chén trà” không phải là một mỹ từ được thêu dệt, mà là sự thật được chứng minh bằng chính hương vị của trà, bằng bao thế hệ người làm trà đã sống, gắn bó và nâng niu từng đọt trà non. Nơi đây không chỉ sản sinh ra trà, mà còn làm sống dậy một nền văn hóa đặc trưng, một di sản hương vị của miền đất đỏ phương Nam nơi mà mỗi chén trà là một mảnh ký ức, một khúc nhạc trầm, và một nét tình sâu lắng của người B’Lao.