Trong bức tranh phát triển kinh tế nông thôn của tỉnh Quảng Ninh, cây chè đang dần khẳng định vai trò không chỉ là một loại cây trồng truyền thống, mà còn là “bước đệm” quan trọng giúp đồng bào dân tộc thiểu số (DTTS) thoát nghèo bền vững và xây dựng cuộc sống ổn định. Ở các xã vùng cao như Quảng Đức, Quảng Chính hay Quảng Sơn, màu xanh mướt của những nương chè trải dài trên triền đồi đã trở thành biểu tượng cho sự thay đổi mạnh mẽ trong tư duy sản xuất và khát vọng phát triển của người dân nơi biên giới.
Toàn xã Quảng Đức hiện có gần 100 ha chè canh tác theo phương thức nông nghiệp hữu cơ.
Xã Quảng Đức, vùng chè tập trung lớn của tỉnh Quảng Ninh, là minh chứng rõ nét nhất cho hành trình vươn lên ấy. Sau khi được thành lập từ sự sáp nhập của các xã Quảng Đức, Quảng Thành và Quảng Thịnh cũ, địa phương này đã xác định cây chè là cây trồng chủ lực, tạo sinh kế ổn định cho hàng trăm hộ người Dao Thanh Y. Toàn xã hiện có gần 100 ha chè, phân bố chủ yếu ở các thôn vùng đồi, nơi có thổ nhưỡng pha giữa phù sa cổ và đất feralit đặc trưng. Sự kết hợp giữa khí hậu vùng núi cao và ảnh hưởng của biển tạo ra điều kiện lý tưởng khiến cây chè sinh trưởng mạnh, cho hương vị và chất lượng khác biệt so với nhiều vùng chè trong khu vực.
Theo ông Phan Văn Việt, Phó Chủ tịch UBND xã Quảng Đức, cây chè không chỉ mang lại thu nhập mà còn là yếu tố quan trọng giúp địa phương xóa đói giảm nghèo, đặc biệt với các hộ DTTS. Tư duy sản xuất mới đã dần hình thành khi người dân được tiếp cận với tập huấn kỹ thuật, ứng dụng quy trình canh tác sạch và nâng cao chất lượng sản phẩm. Từ khâu bón phân, tỉa cành, chăm sóc đến thu hái, tất cả đều tuân theo quy trình nhằm tối ưu năng suất mà vẫn bảo vệ môi trường sinh thái.
Sản lượng chè của Quảng Đức hiện đạt hàng chục tấn mỗi năm. Giá trị sản phẩm tăng đều nhờ sự đầu tư bài bản vào kỹ thuật chế biến. Nhiều hộ đã mạnh dạn mua sắm máy sao chè, máy vò, lò sấy hiện đại, thay thế hoàn toàn cách chế biến thủ công trước đây. Nhờ đó, chè thành phẩm có màu nước trong, vị ngọt hậu sâu và hương thơm ổn định, những yếu tố quan trọng quyết định tính cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường.
Hướng đi bền vững của xã Quảng Đức được thể hiện rõ hơn qua định hướng mở rộng diện tích chè lên hơn 100 ha vào năm 2030 và xây dựng các vùng sản xuất đạt tiêu chuẩn VietGAP. Việc gắn sản xuất với chế biến, tiêu thụ và xây dựng thương hiệu tập thể không chỉ giúp nâng cao giá trị kinh tế mà còn tạo nền tảng để chè Quảng Đức bước ra thị trường rộng lớn hơn. Hiện địa phương đã thành lập tổ hợp tác trồng và chế biến chè VietGAP với 21 thành viên, do bà Đào Thị Bính làm tổ trưởng. Với khoảng 3 ha canh tác, tổ hợp tác đạt năng suất trung bình đến 6 tấn búp tươi/ha, tương đương 1 tấn chè khô, mức hiệu quả cao so với quy mô hộ gia đình.
Theo bà Bính, việc áp dụng VietGAP đã giúp chất lượng chè tăng rõ rệt, đồng thời nâng cao thu nhập cho các hộ tham gia. Mỗi vụ chè mang lại doanh thu hàng trăm triệu đồng, tạo nguồn lực để bà con tiếp tục đầu tư máy móc, mở rộng xưởng chế biến và cải thiện kỹ thuật. Mong muốn lớn nhất của các thành viên tổ hợp tác là được hỗ trợ giống chè mới, công nghệ chế biến tiên tiến và các chương trình xúc tiến thương mại để thương hiệu chè Quảng Đức có thể vươn xa.
Những nỗ lực này đã mang lại trái ngọt. Hai sản phẩm tiêu biểu của xã là “Chè nõn Loan Bính” và “Hồng chè Loan Bính”, đã được công nhận OCOP 3 sao cấp tỉnh, đánh dấu bước tiến quan trọng trong việc xây dựng thương hiệu địa phương. Không chỉ mang lại giá trị kinh tế, các sản phẩm OCOP còn góp phần nâng cao niềm tự hào của người Dao Thanh Y về truyền thống canh tác của mình.
Một điểm sáng khác là sự chuyển dịch tích cực trong đời sống người dân. Theo báo cáo kinh tế, xã hội 9 tháng năm 2025, xã Quảng Đức không còn hộ nghèo, chỉ còn 8 hộ cận nghèo theo chuẩn mới. Thành quả này có sự đóng góp lớn của cây chè, loại cây tạo việc làm quanh năm cho hàng trăm lao động. Nhờ nguồn thu ổn định, nhiều hộ gia đình đã mạnh dạn xây dựng nhà xưởng, đầu tư thiết bị, tạo chuỗi giá trị khép kín từ trồng, chế biến, tiêu thụ, đồng thời tăng năng lực cạnh tranh của sản phẩm địa phương.
Ngoài lợi ích kinh tế, cây chè còn mang giá trị xã hội sâu sắc. Việc duy trì sản xuất chè góp phần hạn chế tình trạng bỏ ruộng, di cư lao động và tạo sự gắn bó của người dân với đất đai. Các mô hình sản xuất cộng đồng, tổ hợp tác cũng thúc đẩy tinh thần đoàn kết, chia sẻ kinh nghiệm và hỗ trợ lẫn nhau trong quá trình phát triển kinh tế. Hơn thế, những nương chè xanh mướt còn mở ra tiềm năng khai thác du lịch trải nghiệm, kết hợp với văn hóa bản địa của người Dao Thanh Y, một hướng đi đang được nhiều địa phương miền núi lựa chọn.
Trên những triền đồi phủ xanh bởi búp chè non, câu chuyện đổi thay của xã Quảng Đức chính là minh chứng cho sức mạnh của sự kiên trì và khát vọng vươn lên. Với định hướng phát triển nông nghiệp sạch, chính quyền và người dân đang khẳng định vị thế mới của chè Quảng Đức trong chuỗi giá trị nông sản của tỉnh. Cây chè, từ dấu ấn truyền thống, đang trở thành biểu tượng của sự thịnh vượng và hy vọng, là bước đệm vững chắc đưa đồng bào DTTS ở Quảng Ninh tiến gần hơn tới mục tiêu phát triển bền vững.