Nghệ thuật đấu trà bắt đầu từ đâu?
Có nhiều giả thuyết khác nhau về sự ra đời của tục đấu trà, nhưng hầu hết vẫn cho rằng đấu trà bắt đầu từ đời nhà Tống. Theo Phạm Trọng Yêm (989-1052) ghi lại, nghệ thuật “đấu trà” bắt đầu sớm nhất vào thời Bắc Tống. Sau khi pha trà, nhàn cư vô sự người ta bèn nghĩ ra cuộc chơi thử tài nhận biết sắc, hương, vị của từng loại trà, giống như “chơi hoa mà ai dễ biết hoa”.
Đấu trà cung đình, phổ biến trong giới thượng lưu và đấu trà dân gian do những nghệ nhân tổ chức là 2 loại hình đấu trà dưới triều đại nhà Tống. Những cuộc “đấu trà” này đều được mô tả hết sức căng thẳng, mọi trà sĩ đều cố gắng hết sức để có thể trở thành người thắng cuộc. Vào mùa xuân, khi những đồi chè lá non mơn mởn, các bậc nghệ nhân trà đứng ra mở lớp đấu trà. Môn đấu trà này đòi hỏi người chơi phải có trình độ cao mới có thể đoán nhận và bình phẩm được từng loại trà.
Có 2 cách thi “đấu trà” phổ biến ở Trung Quốc. Thứ nhất là thi pha trà, người dự thi phải làm thế nào pha được tách trà ngon nhất. Người pha trà phải đạt đến trình độ thượng thừa mới pha được loại trà có màu sắc, hương thơm và mùi vị đẳng cấp.
Khi “đấu trà”, cả hai bên lấy một tách bột trà và pha bằng cách gọi là “điểm trà”. Đầu tiên họ rắc một ít bột trà xuống đáy tách rồi cho một ít nước sôi vào, khuấy đều để tạo thành một hỗn hợp trà sền sệt, cách này gọi là “điều cao”.
Sau đó họ tiếp tục đổ nước sôi vào, gọi là “điểm thang”. Khi đổ nước sôi vào, họ dùng phới tre, tức cây chổi trà (trà tiển) đập nhẹ vào nước trà, khuấy đều để cho nước trà nổi lớp bọt phía trên. Nước trà thu được phải có hoa súp màu trắng sữa. Tỷ lệ trà và nước bọt phải phù hợp, làm sao để nước đều, không đều xem như thất bại.
“Hoa canh” là thuật ngữ dùng để chỉ bọt nổi lên từ nước trà. Có hai tiêu chí để xác định chất lượng của hoa canh: thứ nhất là màu sắc của hoa canh, có màu trắng sáng ở phía trên, thứ hai là sau khi hoa canh xuất hiện thì sớm hay muộn cũng xuất hiện các vết nước.
Nếu bột trà được xay mịn, nước bọt vừa phải, nước trà đều và mịn thì có thể vết nước đọng lại, hiện rõ ở thành chén, gọi là “cắn chén”. Ngược lại, nếu hoa canh mọc lên mà không cắn được thì sẽ nhanh chóng lây lan. Ngay sau khi hoa bọt được phân tán, “vết nước” xuất hiện ở nơi mà nước trà và chén tiếp xúc nhau.
Người nào xuất hiện dấu nước sớm thì thua cuộc, còn người nào có vết nước sau thì thắng. Vì vậy, thắng hay bại của cuộc “đấu trà” đều được tính bằng “thủy”, một lần thua là “một nước”, hai lần là “hai thủy” và cứ thế mà tính.
Cách thứ hai cũng không kém phần khó khăn là nhận biết trà. Ban giám khảo đưa ra 5 mẫu trà cho người dự thi xem trước. Sau đó, họ bí mật pha thành các loại trà khác nhau, để thí sinh thử phân biệt. Không những phải nhận ra được các nguyên liệu để pha trà, thí sinh còn phải xếp hạng các loại trà theo cấp bậc: tùng, cúc, trúc, mai, xét theo độ ngon miệng, hương vị của chúng.
Cao hơn nữa, các thí sinh thậm chí còn phải nhận xét được lá chè già hay non, hái ở vị trí nào trên cây: gốc, ngọn, cành rồi miêu tả loại trà bằng lời. Ví dụ màu sắc của nước trà phải là màu của trà, với màu trắng tinh khiết hiện phía trên. Tiếp theo lần lượt là trắng xanh, trắng xám và trắng vàng. Màu trắng tinh cho thấy trà tươi và mềm, nghĩa là khi hấp có hơi nóng vừa phải; hơi xanh cho thấy nhiệt không đủ khi hấp; màu xám có nghĩa là nhiệt quá già; hơi vàng nghĩa là không được thu hoạch kịp thời và hơi đỏ có nghĩa là nhiệt độ rang quá cao.
Ngày xưa, người Trung Quốc “đấu trà” còn kèm theo ngâm thơ phổ nhạc, một bài thơ ẩm trà truyền cho đến nay, đại ý như sau: “Một chén trơn môi trơn cổ, hai chén hết nỗi cô buồn, ba chén tuy cạn nguồn thi hứng nhưng vẫn còn ngàn vạn quyển, bốn chén vã mồ hôi nhẹ, bình sinh mà không sinh sự, năm chén gân cốt thanh sạch, sáu chén thông đạt diệu linh, báy chén như bổng như bay”.
Nghệ thuật đấu trà uống tới 50 tách ở Nhật Bản
Nước Nhật biết đến đấu trà (Tōcha) vào thời kỳ Kamakura (Liêm Thương thời đại, 1185–1333). Ở Nhật, người ta còn gọi cuộc thi này là Hồi trà (Kai cha), Ẩm trà thắng phụ (Yamucha shōbu), Trà ký hiệp (Chayoriai), Trà thang thắng phụ (Chatō shōbu) và Cống trà (Kōcha).
Ban đầu, mục đích là để phân biệt trà chất lượng cao của vùng Tạp Đông thôn (Kyoto no togano) với các loại trà khác, tuy nhiên khi phát triển đến cực thịnh thì nghệ thuật đấu trà nhằm vào việc xác định đúng nơi sản xuất trà bằng cách pha trà, uống trà và đoán xuất xứ từ hương thơm và mùi vị.
Nam-Bắc triều (Nanbokucho) chính là thời kỳ hoàng kim của đấu trà, đến đầu thời đại Thất Đinh (Muromachi) thì cách thi phổ biến nhất là Tứ chủng thập phục trà, nghĩa là sử dụng tổng cộng 4 loại trà (3 loại trà hạt và 1 loại trà khách). Đầu tiên là 3 loại trà hạt "Ichinocha", "Ninocha" và "Sannocha”.
Mỗi người tham gia phải nếm và kiểm tra mùi vị, hương thơm. Tiếp theo, pha tổng cộng 10 túi trà, tổng cộng 3 loại trà (mỗi loại 3 túi) và 1 túi từ loại trà của khách. Những người tham gia phải trả lời liệu 10 túi trà có giống với lần nếm thử đầu tiên là "Ichinocha", "Ninocha", "Sannocha" hay không, hoặc liệu chúng có phải là các loại trà của khách hay không, người nào trả lời đúng nhiều nhất sẽ là người chiến thắng với giải thưởng gồm có lụa, vũ khí, vàng và đồ trang sức.
Có những cuộc đấu trà quy mô, đòi hỏi người chơi phải thi nhiều lần, chẳng hạn như cuộc thi Bách phục trà (Hyakkacha), còn gọi là Bách chủng trà (Hyakkacha) của Sasaki Takauji. Ngoài ra còn nhiều cách thi đấu tầm cỡ khác.
Do người thi đấu phải uống rất nhiều trà, thường là 10 hoặc 50 tách, nên cuộc thi còn những tên khác gọi là juppukucha (10 tách trà) và gojuppukucha (50 tách trà). Nhân viên phục vụ đem chén hoặc tách chứa sẵn trà bột ra cho khách. Khi khách đã ngồi vào chỗ, họ sẽ đổ nước nóng vào tách và đánh bông trà để chuẩn bị.
Một trong những ví dụ sớm nhất về đấu trà là bài giảng Hoa viên viện thần ký (Hanazonoin Shoki) của Thiên hoàng Hanazono, viết ngày 18.11.1324, vào cuối thời Kamakura. Tám năm sau, Hoàng đế Kogon viết bài Quang Nghiêm thiên hoàng thần ký (Hồi ký của Hoàng đế Kogon) vào tháng 6 năm 1332, cho biết triều đình cũng đã tổ chức đấu trà. Ngoài ra, Thái bình ký (Taihei-ki ) viết rằng thi hào Tá Tá Mộc Đạo Dự (Sasaki dōyo) đã mở một cuộc thi đấu trà quy mô, với giải thưởng lớn là Bách phục trà.
Từ giữa thế kỷ 15, khi văn hóa Đông Sơn (Higashiyama bunka, 1436-1490) chuyển đổi, đấu trà bắt đầu suy giảm. Tuy nhiên, do nhóm Kabuki yêu thích nên từ thế kỷ 17, việc đấu trà có tên mới là trà Kabuki. Điều này được ghi nhận trong Ca vũ kỹ trà (Senke Shichijiki) và trở thành một phần của nghi thức Trà đạo sau đó.
Các cuộc đấu trà có thể ồn ào, náo nhiệt giống như cờ bạc, song có thể xem là bước đệm giữa việc sử dụng trà để chống buồn ngủ của Phật giáo Thiền tông và trà đạo thế tục, kể từ khi nó lần đầu tiên phổ biến việc uống trà bên ngoài các tu viện.
Trong cuộc thi Kabuki đấu trà hiện đại, người chơi phải trả lời đúng nguồn gốc của 5 loại trà, quy tắc này không thay đổi ngày nay. Tại thị trấn Nakanojo, tỉnh Gunma, tục lệ đấu trà Bạch cửu bảo trà giảng (Shirakubo no Ochako) được coi là tài sản văn hóa dân gian phi vật thể quan trọng của đất nước Nhật Bản.
Đấu trà được yêu thích và phổ biến đến mức đã biến tấu thành một môn “cờ bạc” khi có rất nhiều người phải bán tài sản, bán nhà để trả nợ vì thua trong “ván bạc” trà. Từ đó, hoạt động này bị cấm tổ chức. Tuy nhiên, vì quá yêu và không thể bỏ trà, các võ sĩ đã bắt đầu một thú vui nhẹ nhàng và tao nhã hơn: thưởng thức trà với cảm nhận vẻ đẹp của đồ gốm, để thiên nhiên và tâm hồn hòa quyện. Đây chính là tiền thân Trà đạo của Nhật Bản sau này.
Ngày nay, cuộc thi Đấu Trà tại Nhật Bản được tổ chức 1 năm 1 lần để vinh danh những nghệ nhân trà. Với hình thức tuyển chọn khắt khe, trong số nghệ nhân trên toàn quốc, chỉ có 120 người được chọn vào vòng chung kết. Đoán đúng chính xác 5 loại trà trong thời gian chỉ vài giây, quả thật là phải tinh mùi, tinh vị, tinh thông về tất cả loại trà thì mới có thể dành chiến thắng trong cuộc thi cam go này.