Doanh nghiệp chè gặp khó khăn trong việc tìm đầu ra cho sản phẩm 

Để hoàn thành kế hoạch xuất khẩu cho sản phẩm chè trong những tháng cuối năm, các doanh nghiệp đã xây dựng phương án phục hồi sản xuất, khắc phục khó khăn, tìm kiếm thị trường.

Theo thống kê của Bộ Nông nghiệp & Phát triển nông thôn, chè là nông sản chịu ảnh hưởng trực tiếp từ đại dịch Covid-19 khi thị trường bị đứt gãy, giá cước tăng cao, giá chè xuống thấp, tiêu thụ chậm. Qua rà soát từ các doanh nghiệp cho thấy, hoạt động sản xuất, chế biến chè của các địa phương không nằm ngoài ảnh hưởng, khi thị trường co hẹp lại do các bạn hàng lâu năm tạm dừng nhập khẩu.

Tỉnh Tuyên Quang hiện có 3 doanh nghiệp lớn và hơn 10 doanh nghiệp nhỏ sản xuất, chế biến chè xuất khẩu. Sản phẩm chè của các đơn vị này chủ yếu xuất bán sang một số nước như Đài Loan, Ấn Độ, Pakistan, Afghanistan và một số nước châu Âu… Qua rà soát, lượng chè tồn kho của các doanh nghiệp tương đối lớn, trong đó, riêng 3 công ty chè lớn gồm Công ty Chè Sông Lô, Công ty Chè Mỹ Lâm và Công ty Chè Tân Trào, lượng chè tồn kho đã xấp xỉ 1.400 tấn.

Công nhân Công ty Chè Sông Lô (Tuyên Quang) vận chuyển chè vào kho của nhà máy.
Công nhân Công ty Chè Sông Lô (Tuyên Quang) vận chuyển chè vào kho của nhà máy.

Ông Lê Quang Chuyền - Giám đốc Công ty Chè Mỹ Lâm cho biết: Để không phụ thuộc quá nhiều vào một thị trường, ngoài sản xuất sản phẩm chè đen, chè xanh phục vụ xuất khẩu, doanh nghiệp đã đầu tư dây chuyền, công nghệ để sản xuất chè túi lọc, ưu tiên cho thị trường nội địa. Nhờ thế, hiện lượng hàng tồn kho của doanh nghiệp chỉ còn khoảng 30 tấn.

Ngoài các chính sách hỗ trợ từ Chính phủ và các ngân hàng, như giãn giảm thuế, giảm lãi suất ngân hàng... các nhà máy sản xuất hiện cũng đang khắc phục khó khăn, tìm kiếm các thị trường mới, các đơn hàng mới. Để giảm chi phí không cần thiết, các đơn vị đang thực hiện cho lao động nghỉ luân phiên, hưởng lương theo sản phẩm.

Theo ông Nguyễn Mạnh Tú, Phó Chi cục trưởng Chi cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật tỉnh: Chè là cây trồng thế mạnh của tỉnh, là loại nông sản nổi tiếng góp phần khẳng định thương hiệu nông sản địa phương. Ngành nông nghiệp cũng đã lường trước những khó khăn của ngành chè và có phương án cụ thể, trong đó chú trọng nâng cao chất lượng và xúc tiến tìm đầu ra. Theo đó, ngành tập trung tuyên truyền, hướng dẫn các tổ chức, cá nhân xây dựng các dự án đầu tư, sản xuất chè an toàn; trồng thay thế diện tích chè giống cũ, năng suất thấp bằng các giống chè mới có năng suất, chất lượng cao. Đẩy mạnh ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật về giống, phân bón, các biện pháp canh tác, sử dụng thuốc bảo vệ thực vật an toàn nhằm tăng năng suất, sản lượng, chất lượng sản phẩm chè. Đồng thời, mở rộng diện tích sản xuất chè theo tiêu chuẩn VietGAP, hữu cơ tại các vùng nguyên liệu. Khuyến khích, hỗ trợ doanh nghiệp mở rộng diện tích áp dụng tiêu chuẩn sản xuất nông nghiệp bền vững, quản lý chất lượng, truy xuất nguồn gốc từ vườn cho tới sản phẩm cuối cùng tại nhà máy.

Bên cạnh việc khắc phục khó khăn do lượng chè tồn kho quá lớn, một số doanh nghiệp sản xuất chè cũng gặp khó khăn do không vận chuyển được hàng hóa qua một số nước và giá cước vận chuyển cũng tăng cao.

Ông Trần Quốc Văn - Phó Giám đốc Công ty cổ phần Chè Mỹ Lâm cho biết, ảnh hưởng của dịch Covid-19, thị trường xuất khẩu chè trước đây như châu Âu, Mỹ, Anh... chưa thể thông quan trở lại, hiện công ty còn khoảng 80 tấn chè khô đang tồn kho, chưa thể xuất bán. Mặc dù vậy, công ty vẫn phải duy trì sản xuất, đảm bảo bao tiêu chè búp tươi như đã ký kết với người dân nên số chè tồn sẽ tiếp tục tăng trong thời gian tới, trước khi thị trường xuất khẩu mở cửa trở lại.

Dây chuyền chế biến chè đen theo công nghệ tiên tiến (CTC) của Công ty cổ phần chè Mỹ Lâm
Dây chuyền chế biến chè đen theo công nghệ tiên tiến (CTC) của Công ty cổ phần chè Mỹ Lâm

Nếu tồn kho lâu sẽ ảnh hưởng tới mẫu mã và chất lượng chè. Do vậy, để đảm bảo chất lượng chè, các khâu sản xuất, đóng gói phải làm kỹ hơn. Điều này đồng nghĩa với việc thời gian sản xuất kéo dài hơn khiến các chi phí gia tăng, trong khi sản phẩm chè thời điểm hiện tại công ty đang xuất bán với giá 3.700 - 4.000 đồng/kg (thấp hơn năm trước 10 - 20%). Để duy trì vùng nguyên liệu hơn 430 ha và ổn định sản xuất, đơn vị tập trung vào việc đảm bảo chất lượng sản phẩm, chuẩn bị sẵn sàng nguồn nguyên liệu ổn định để khi dịch bệnh được khống chế, thị trường được khơi thông sẽ có sản phẩm cung ứng cho thị trường. Đồng thời, đơn vị cũng lên kế hoạch sản xuất chè xanh đặc sản nội tiêu trong tỉnh và trong nước, hy vọng cuối năm sẽ có thể đưa sản phẩm chè nội tiêu ra thị trường.

Còn tại Công ty TNHH Thành Long (Sơn Dương), sản phẩm trà Thành Long đang có thị trường tiêu thụ chính là các nước Trung Đông. Từ khi dịch Covid-19 bùng phát, doanh nghiệp chịu tổn thất nặng nề do chè không tiêu thụ được.

Ông Nguyễn Trác Long - Giám đốc Công ty TNHH Thành Long cho biết, ảnh hưởng từ dịch bệnh, thị trường xuất khẩu chè truyền thống như Pakistan, Afghanistan bị “đóng băng”, nhiều đối tác tạm hoãn các hợp đồng, ảnh hưởng đến khả năng xoay vòng vốn của đơn vị. Để tháo gỡ khó khăn trước mắt, ngoài các chính sách hỗ trợ từ UBND tỉnh và các ngân hàng, như giãn giảm thuế, giảm lãi suất ngân hàng... đơn vị hiện cũng đang tìm kiếm thêm các đối tác mới, mở rộng thị trường tiêu thụ chè ở thị trường nội địa, sang các tỉnh như Phú Thọ, Thái Nguyên, thành phố Hồ Chí Minh...

Để ổn định sản xuất, chế biến, kinh doanh chè trên địa bàn tỉnh, ngành Nông nghiệp xác định tập trung tuyên truyền nâng cao nhận thức của người dân về lợi ích lâu dài của cây chè; vận động người dân chia sẻ và đồng hành với doanh nghiệp trong giai đoạn khó khăn nhằm duy trì vùng nguyên liệu bền vững, chăm sóc tốt diện tích chè hiện có và tuân thủ đúng quy trình kỹ thuật; tăng cường việc quảng bá, giới thiệu sản phẩm trên sàn thương mại điện tử, trang mạng xã hội, hiệp hội chè; đẩy mạnh việc liên hệ với các khách hàng truyền thống, tìm kiếm thêm đối tác mới để thúc đẩy việc tiêu thụ; tiếp tục khuyến khích bà con đầu tư thâm canh, chế biến chè để nâng cao sản lượng và chất lượng chè theo tiêu chuẩn VietGap, hữu cơ...

Đồng thời, chính quyền các địa phương cũng chủ động phối hợp với các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh chè trên địa bàn để kịp thời giải quyết, tháo gỡ khó khăn; xây dựng các phương án, giải pháp tiêu thụ sản phẩm chè trong giai đoạn hiện nay.

Nhân Lê