Giữ hồn tranh Đồ Thế: Khi người trẻ đi tìm cội nguồn dân tộc

Tranh Đồ Thế – nghệ thuật dân gian gắn liền với tín ngưỡng truyền thống từng quen thuộc với người Việt nhưng nay lại xa lạ với giới trẻ. Giữa làn sóng hiện đại hóa, việc bảo tồn và hồi sinh loại hình nghệ thuật độc đáo này vừa là thách thức, vừa là cơ hội cho thế hệ trẻ sáng tạo.

Giải mã tranh Đồ Thế: Nghệ thuật "thế thân" và những ý nghĩa tâm linh

 

 

Trong cuốn “Tranh dân gian đồ thế Việt Nam”, Nhà nghiên cứu, sưu tầm Nguyễn Thị Thu Hòa, Giám đốc Bảo tàng gốm sứ Hà Nội định nghĩa: “Tranh dân gian Đồ Thế là tranh dân gian được dùng trong các nghi lễ tôn giáo và tín ngưỡng với chức năng là vật phẩm hiến tế những đối tượng được thờ cúng (thần linh hoặc linh hồn của những người đã chết)”.

Trong đó, “Đồ Thế” là thuật ngữ chỉ những đồ vật được tạo tác một cách tỉ mỉ, mô phỏng các vật dụng, của cải, thậm chí là con người, gia súc... quen thuộc trong đời sống trần thế. Chúng không nhằm mục đích sử dụng cho người sống, mà mang ý nghĩa đặc biệt: trở thành vật “thế thân”, “thay thế” để dâng cúng, gửi gắm cho người đã khuất hoặc các vị thần linh trong thế giới tâm linh. Chúng hiện diện trong hầu hết các sự kiện quan trọng gắn liền với vòng đời con người và chu kỳ thời gian của cộng đồng như nghi lễ tang ma, cúng giỗ, lễ Tết, các lễ hội truyền thống, lễ giải hạn, cầu an.

Tranh Xích Hổ Hàng Trống , trấn giữ phương Nam, thuộc Hành Hỏa,  thể loại tranh đồ thế  
Tranh Xích Hổ Hàng Trống , trấn giữ phương Nam, thuộc Hành Hỏa,  thể loại tranh đồ thế  

Trong kho tàng di sản văn hóa Việt, Tranh Đồ Thế dù có những điểm giao thoa nhất định với các loại hình nghệ thuật và vật phẩm tín ngưỡng khác, vẫn khẳng định một vị trí riêng biệt nhờ những đặc trưng không thể trộn lẫn. Khác với vàng mã thông thường, Tranh Đồ Thế tinh xảo và mang đậm tính nghệ thuật. Mục đích cốt lõi của Tranh Đồ Thế là phục vụ nghi lễ tín ngưỡng, làm vật phẩm dâng cúng cho cõi âm. Dù có giá trị nghệ thuật, vòng đời của chúng thường kết thúc sau khi được “hóa”, mang ý nghĩa “chuyển giao” sang thế giới khác.

Về kỹ thuật và chất liệu, tranh Đồ Thế có kỹ thuật đa dạng, bao gồm vẽ tay trực tiếp, in ấn đơn giản cho chi tiết phụ, và đặc biệt là kỹ thuật tạo hình không gian ba chiều với các mô hình, sử dụng chủ yếu giấy và tre nứa, với màu sắc có thể là tự nhiên hoặc công nghiệp.

Có thể thấy, Tranh Đồ Thế lại là sự giao thoa độc đáo: vừa mang đậm tính nghi lễ, vừa ẩn chứa giá trị nghệ thuật thủ công tinh tế, với một đời sống đặc biệt gắn liền với quan niệm về thế giới tâm linh.

Theo thạc sĩ Trần Quốc Đức –Trường Đại học Mỹ thuật Việt Nam, mỹ thuật cổ truyền Việt Nam được chia thành hai mảng chính: cung đình và dân gian. Nếu mỹ thuật cung đình tinh xảo, chuẩn mực qua các tạo hình triều Lý, Lê, Nguyễn, thì mỹ thuật dân gian lại phóng khoáng, gần gũi với đời sống thường nhật, là nơi lưu giữ tâm thức cộng đồng qua nhiều thế hệ.

Chân dung Trần Quốc Đức
Chân dung Trần Quốc Đức

Một trong những biểu hiện nổi bật của mỹ thuật dân gian chính là tranh Đồ Thế – dòng tranh gắn chặt với tín ngưỡng truyền thống. Tại Huế, nghệ nhân Kỳ Hữu Phước được xem là người có công lớn trong việc phục hồi dòng tranh Làng Sình, nơi sản sinh ra nhiều tác phẩm Đồ Thế độc đáo như bộ tranh Bát Âm, tranh thế thân nam nữ, gia súc hay các vật dụng sinh hoạt hàng ngày. Những hình vẽ mộc mạc ấy không chỉ phục vụ nghi lễ mà còn chuyển tải khát vọng an lành, sung túc của người dân.

Anh Đức cho biết, tranh Đồ Thế không giới hạn trong một dòng tranh cụ thể mà xuất hiện ở nhiều dòng tranh dân gian nổi tiếng như Đông Hồ, Hàng Trống, Kim Hoàng, thậm chí là tranh kính, tranh bích họa. Điều này cho thấy đây là một loại hình nghệ thuật mang tính bao trùm, phản ánh sâu sắc đời sống tâm linh người Việt.

Hình thức thể hiện của tranh Đồ Thế cũng phong phú: từ in mộc bản, vẽ tay đến kỹ thuật kết hợp tô màu. Không đơn thuần là vật phẩm nghi lễ, mỗi bức tranh đều chứa đựng lớp lang biểu tượng văn hóa, tư duy tạo hình và triết lý dân gian đặc trưng.

Nhấn mạnh giá trị lớn nhất của dòng tranh này, thạc sĩ Trần Quốc Đức cho rằng: “Tranh Đồ Thế là sự hòa quyện giữa tâm linh, thờ cúng và mỹ thuật – tạo thành một bản thể nghệ thuật độc đáo. Dù được sử dụng trong các nghi lễ như tranh Thanh Y, tranh ngựa hay hình nhân thế mạng, mỗi tác phẩm vẫn chứa đựng chiều sâu nghệ thuật và tinh thần văn hóa dân tộc.”

Khi người trẻ "ngược dòng" tìm về cội nguồn

Khánh Đan quảng bá tranh Đồ Thế qua dự án Dư Huy 
Khánh Đan quảng bá tranh Đồ Thế qua dự án Dư Huy 

Trong một cuộc khảo sát nhanh do nhóm phóng viên thực hiện với 144 bạn trẻ tại Hà Nội về dòng tranh dân gian Đồ Thế, kết quả cho thấy khoảng 56,5% chưa từng nghe đến cụm từ “Tranh Đồ Thế”, và 53,9% thừa nhận chưa từng nhìn thấy hay biết đến loại hình tranh này ngay cả khi đã được mô tả cụ thể về nội dung và đặc trưng.

Kết quả khảo sát hé lộ một thực trạng đáng suy ngẫm rằng dòng tranh dân gian Đồ Thế đang dần trở nên xa lạ với thế hệ trẻ năng động ngày nay. Không chỉ gợi lên lo ngại về nguy cơ mai một của một di sản văn hóa truyền thống, thực trạng này còn đặt ra những câu hỏi lớn về hành trình kết nối giữa quá khứ và hiện tại. 

Đặc biệt, nó thôi thúc những trăn trở về vai trò của chính người trẻ trong việc tìm hiểu, giữ gìn và hồi sinh các giá trị văn hóa dân tộc. Hệ lụy trực tiếp là các làng nghề, nếu từng có những khu vực chuyên biệt cho Đồ Thế, cũng đang dần thưa thớt, thậm chí biến mất. Thêm vào đó, dòng tranh này đang phải đối mặt với sự cạnh tranh khốc liệt từ vàng mã công nghiệp. 

Tranh Bạch Mã, làng Tranh Kim Hoàng
Tranh Bạch Mã, làng Tranh Kim Hoàng

Là người trẻ đam mê khám phá, tìm hiểu tranh dân gian đặc biệt là tranh Đồ Thế, Lê Trần Khánh Đan hiện là học sinh tại trường Trường Quốc tế Anh – Việt (British Vietnamese International School Hanoi). Niềm đam mê của Khánh Đan không chỉ dừng lại ở kỹ thuật, mà còn được kết hợp với sự tò mò và trân trọng dành cho văn hóa tâm linh Việt Nam.

Dự án của Khánh Đan triển khai theo hai hướng chính là tổ chức triển lãm cá nhân và phát triển các sản phẩm ứng dụng từ tranh. Triển lãm cá nhân của Khánh Đan diễn ra tại Trung tâm Văn hóa Nghệ thuật số 22 Hàng Buồm. Tại đây, bộ sưu tập tranh đồ thế của em được trưng bày và nhận được sự quan tâm đặc biệt từ đông đảo khách tham quan, trong đó phần lớn là người nước ngoài. Đặc biệt, hai tác phẩm trong triển lãm là tranh "Ngựa xanh" và "Ngựa đỏ" đã được một vị khách người Đức mua với giá 2 triệu đồng mỗi bức. 

Dự án cộng đồng thứ hai được tổ chức tại Phố sách Hà Nội, nơi Khánh Đan kết hợp tranh vẽ với các sản phẩm sáng tạo như in tranh đồ thế lên túi vải, sticker (nhãn dán) và móc khóa.

“Ý tưởng in tranh đồ thế lên túi đến từ mong muốn đưa dòng tranh này đến gần hơn với đời sống hiện đại, trong một hình thức trẻ trung, dễ tiếp cận và ứng dụng cao. Em cho rằng, đây cũng là cách để các thành viên khác trong dự án, những người không trực tiếp học vẽ vẫn có thể tham gia đóng góp”, Khánh Đan nói.

Dự án Dư Huy không chỉ là một bước tiến cá nhân trong hành trình nghệ thuật của Khánh Đan, mà còn là nỗ lực nghiêm túc trong việc gìn giữ và lan tỏa một nét di sản văn hóa đang có nguy cơ bị lãng quên. Khánh Đan cho rằng, hiểu về nghệ thuật truyền thống cũng là một cách để hiểu về cội nguồn, tổ tiên và đời sống tinh thần của ông bà ta ngày xưa. “Em tin, nếu các bạn cho bản thân một cơ hội, nghệ thuật dân gian sẽ mở ra một thế giới thú vị không hề nhàm chán như nhiều người vẫn nghĩ”, Khánh Đan bộc bạch.

Tác Phẩm : Táo Mèo do Trần Quốc Đức sáng tác năm 2023, dựa vào kỹ thuật làm tranh Hàng Trống, trên nền giấy đỏ Kim Hoàng
Tác Phẩm : Táo Mèo do Trần Quốc Đức sáng tác năm 2023, dựa vào kỹ thuật làm tranh Hàng Trống, trên nền giấy đỏ Kim Hoàng

"Điểm cân bằng" cho sự bảo tồn bền vững

PGS.TS Phạm Ngọc Trung, nguyên Trưởng khoa Văn hóa và Phát triển – Học viện Báo chí và Tuyên truyền, đánh giá việc giới trẻ chủ động tìm hiểu và khôi phục các giá trị văn hóa dân gian là "tín hiệu rất đáng mừng". Tuy nhiên, ông cũng chỉ ra thách thức then chốt là tìm ra "điểm cân bằng" giữa việc bảo tồn tính nguyên gốc với việc sáng tạo, làm mới để phù hợp thị hiếu hiện đại.

"Tranh dân gian truyền thống có rất nhiều điển tích, điển cố, những 'ẩn số', những ý nghĩa mà cha ông gửi gắm", PGS.TS Trung nhấn mạnh. "Người hiện đại muốn hiểu được nó, phải giải mã được những ký hiệu, ám hiệu, những quan niệm đó một cách triệt để và chính xác."

Theo ông, chỉ khi hiểu được tầng sâu ý nghĩa - biết thế nào là đẹp, biết tất cả những đường nét thêu, hoa văn trang trí, họa tiết các con vật, ngọn cỏ lá cây có ý nghĩa gì - thì những giá trị của tranh dân gian mới có thể đi sâu vào đời sống hiện đại một cách bền vững.

Câu chuyện về tranh Đồ Thế không chỉ là về một loại hình nghệ thuật đang mai một, mà còn là câu chuyện về cách chúng ta đối xử với di sản văn hóa của mình. Trong thế giới toàn cầu hóa, việc giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc trở nên quan trọng hơn bao giờ hết.

Những nỗ lực như dự án "Dư Huy" của Khánh Đan hay công việc phục hồi tranh Làng Sình của nghệ nhân Kỳ Hữu Phước ở Huế đều là những mảnh ghép quan trọng trong bức tranh bảo tồn văn hóa. Tuy nhiên, để thành công, cần có sự kết hợp giữa nhiều yếu tố: sự quan tâm của xã hội, chính sách hỗ trợ từ nhà nước, và quan trọng nhất là ý thức của mỗi cá nhân.

Như lời khuyên của thạc sĩ Trần Quốc Đức: "Chỉ cần chúng ta chịu đặt câu hỏi tại sao mái đình lại cong, vì sao tranh lại vẽ thế kia thì cánh cửa văn hóa dân gian sẽ dần mở ra. Để vẽ được tranh dân gian, trước hết phải thấm được hồn dân tộc."

Có lẽ, điều quan trọng nhất không phải là làm sao để tranh Đồ Thế trở nên "hiện đại", mà là làm sao để thế hệ trẻ hiểu được rằng, trong mỗi nét vẽ, mỗi họa tiết của những bức tranh này, đều ẩn chứa tâm hồn và trí tuệ của dân tộc. Khi đó, việc bảo tồn và phát huy sẽ không còn là gánh nặng mà trở thành niềm tự hào và động lực sáng tạo cho tương lai.

Nhóm PV

Từ khóa: