Khi nhắc đến Thái Nguyên mảnh đất trung du trù phú nơi trung tâm miền Bắc Việt Nam người ta thường nghĩ đến một đặc sản không chỉ gắn với sinh kế mà còn là niềm tự hào văn hóa: chè. Trong đó, chè trung du một giống chè cổ, quý hiếm từng là “hồn cốt” của thương hiệu chè Thái Nguyên vang danh trong và ngoài nước. Tuy nhiên, theo thời gian, giống chè này dần mai một bởi sự lên ngôi của các giống chè lai năng suất cao. Giữa vòng xoáy ấy, vẫn có những người miệt mài “giữ hồn trung du”, phục hưng giống chè quý như cách giữ lại cốt cách của cả vùng đất chè lâu đời.
Gia đình chị Vi Thị Phương vẫn giữ hơn 3.000m² chè trung du, canh tác theo tiêu chuẩn VietGAP, định hướng sản xuất hữu cơ.
Từ đỉnh cao đến thoái trào: Chè trung du và dấu ấn một thời vang bóng
Thập niên 1980-1990, chè trung du chiếm đến 90% tổng diện tích trồng chè tại Thái Nguyên. Lá chè nhỏ, thuôn dài, xanh sẫm; thân cây xù xì, chịu hạn tốt; nước chè vàng óng như mật ong, thoảng hương cốm non, chát nhẹ đầu lưỡi và ngọt hậu kéo dài tất cả đã tạo nên thương hiệu chè Thái Nguyên nổi danh khắp cả nước.
Nguồn gốc của giống chè này được xác định từ Phú Thọ, được cụ Đội Năm (tức Vũ Văn Hiệt) đưa về Tân Cương (TP. Thái Nguyên) từ những năm 1920. Nhờ khí hậu ôn hòa, đất đồi phù sa pha cát đặc trưng của vùng trung du, chè trung du tại đây sinh trưởng tốt, dần lan tỏa khắp các vùng như Phú Lương, Đồng Hỷ, Đại Từ, Định Hóa... Không chỉ là cây công nghiệp, chè trung du còn là ký ức, là biểu tượng cho văn hóa lao động của biết bao thế hệ người làm chè.
Thế nhưng, những năm gần đây, dưới tác động của thị trường và chính sách nông nghiệp, diện tích chè trung du liên tục sụt giảm. Các giống chè cành, chè lai năng suất cao, mẫu mã đẹp nhanh chóng chiếm ưu thế. Đến năm 2024, giống chè trung du chỉ còn khoảng 17% diện tích trên tổng hơn 22.200ha chè toàn tỉnh Thái Nguyên một con số đáng báo động.
Không để mất đi “chứng minh thư” của thương hiệu chè Thái
Bà Nguyễn Thị Ngà Chủ tịch Hội Chè Thái Nguyên chia sẻ, chè trung du không chỉ đơn thuần là một loại cây trồng, mà còn là kết tinh của văn hóa và lịch sử vùng đất. Những vùng chè đã được cấp chỉ dẫn địa lý, như Tân Cương, cần được bảo vệ nghiêm ngặt, bởi đó chính là "chứng minh thư" khẳng định giá trị và thương hiệu của chè Thái Nguyên.
Chứng minh thư ấy, nếu để phai mờ, sẽ không chỉ là mất đi một giống chè quý, mà là đánh rơi bản sắc của cả một vùng đất sống bằng chè, thở bằng chè, và tự hào vì chè. Chính vì vậy, nhiều nông dân, hợp tác xã và cả chính quyền tỉnh Thái Nguyên đang nỗ lực viết lại câu chuyện chè trung du theo cách mới: khoa học hơn, bền vững hơn, và gắn liền với giá trị văn hóa.
Phục hưng từ tâm huyết của những người “giữ hồn chè”
Anh Nguyễn Thanh Dương một người trồng chè lâu năm ở xóm Hồng Thái 2, xã Tân Cương từng đứng trước lựa chọn khó khăn: giữ hay bỏ giống chè trung du. Trải qua nhiều cuộc thi chè, tham dự các phiên chợ và lắng nghe thị trường, anh chọn giữ lại những gốc chè cổ của gia đình. Không dừng lại ở đó, anh thành lập Hợp tác xã chè trung du Tân Cương, mở rộng diện tích trồng lên hơn 20ha, với hơn 50% là chè trung du theo hướng hữu cơ, đạt chuẩn VietGAP.
Hương vị nguyên bản của chè trung du, theo anh Dương, chính là yếu tố làm nên giá trị khác biệt. “Khách sành chè không chỉ uống mà còn thưởng. Và khi họ tìm về cội nguồn, thứ họ muốn là vị cốm non thoảng hương, vị chát đậm ban đầu và hậu ngọt dài lâu điều mà chỉ chè trung du mới có.”
Hợp tác xã của anh Dương hiện xuất ra thị trường 5-7 tấn chè khô mỗi tháng, doanh thu trung bình khoảng 2 tỷ đồng. Các sản phẩm đặc biệt như trà trung du thượng hạng, trà ướp sen Hồ Tây hay trà tước thiệt... đang dần xuất hiện trên các kệ hàng cao cấp và cả trong các đơn hàng xuất khẩu.
Tại xã Quang Sơn (Đồng Hỷ), chị Vi Thị Phương cũng đang kiên trì bảo tồn giống chè này trên diện tích 6.000m² đất canh tác. Chị Phương áp dụng kỹ thuật canh tác hữu cơ, đồng thời sáng tạo ra nhiều sản phẩm độc đáo từ chè trung du như trà bancha, hồng trà, nụ hoa chè, chè chiên, dưa muối chè... Giá bán dao động từ 200.000 đến 1.000.000 đồng/kg – mức giá thể hiện rõ giá trị vượt trội của giống chè truyền thống.
“Chè không chỉ là chè”: Khi chè gắn với văn hóa, du lịch và kinh tế số
Giữ lại chè trung du không có nghĩa là bảo thủ với cách làm cũ. Trái lại, những người yêu chè đang tích cực đổi mới. Họ ứng dụng công nghệ trong chăm sóc cây trồng, chế biến sản phẩm; kết nối thương mại điện tử để mở rộng thị trường; và đặc biệt, gắn chè với du lịch trải nghiệm, kể lại câu chuyện văn hóa vùng chè cho du khách gần xa.
Xóm Khe Cốc (xã Tức Tranh, Phú Lương) là một ví dụ tiêu biểu. Với hơn 200ha chè trung du, nơi đây không chỉ là vùng nguyên liệu quý, mà còn đang trở thành điểm đến mới của du lịch chè. Du khách đến đây được tham quan đồi chè “bát úp” xanh mướt, trải nghiệm hái chè, sao chè truyền thống và thưởng thức vị trà ngay giữa thiên nhiên tĩnh lặng.
Ông Tô Văn Khiêm Giám đốc HTX chè an toàn Khe Cốc cho biết: “Chè trung du tuy năng suất không cao như chè lai, nhưng giá thành lại gấp đôi, thậm chí gấp ba nếu chế biến tốt. Quan trọng hơn, nó giúp xây dựng thương hiệu bền vững, nhất là với các dòng sản phẩm cao cấp và xuất khẩu.”
Hiện HTX của ông Khiêm phát triển hơn 10 dòng sản phẩm từ chè trung du, trong đó có trà đinh, trà tôm nõn, túi lọc, matcha... Nhiều sản phẩm đã tiếp cận các thị trường Nhật Bản, Hàn Quốc, châu Âu những nơi yêu cầu khắt khe về chất lượng và nguồn gốc nông sản.
Giống chè trung du có thể bền cây, chịu hạn, kháng sâu bệnh tốt và cho chất lượng cao, nhưng vẫn rất cần một hệ sinh thái hỗ trợ đủ mạnh để phát triển bền vững. Từ vốn vay ưu đãi, đào tạo kỹ thuật, xúc tiến thương mại cho đến các chính sách khuyến khích bảo tồn giống bản địa tất cả đều cần thiết để chè trung du “sống khỏe”, “sống đúng giá trị” và “sống dài lâu”.
Đầu năm 2025, tỉnh Thái Nguyên đã thông qua Nghị quyết riêng về phát triển cây chè và văn hóa trà, đặt mục tiêu đến năm 2030 đạt doanh thu 1 tỷ USD. Trong hành trình hiện thực hóa khát vọng ấy, chè trung du không thể bị bỏ lại phía sau. Ngược lại, giống chè cổ này cần được xác định là trụ cột giá trị, là biểu tượng văn hóa, và là hướng đi riêng biệt trong chiến lược chinh phục phân khúc cao cấp.
“Giữ hồn trung du” không chỉ là câu chuyện của vài hộ dân hay một vài hợp tác xã. Đó là hành trình bảo tồn một phần di sản nông nghiệp và văn hóa của Việt Nam. Khi cây chè không còn đơn thuần là cây làm giàu, mà là biểu tượng, là bản sắc, là nhịp cầu nối giữa truyền thống và hiện đại thì việc phục hưng giống chè trung du sẽ không chỉ mang lại giá trị kinh tế, mà còn gìn giữ một phần linh hồn của đất Thái Nguyên. Bởi suy cho cùng, trong mỗi tách trà ngát hương cốm, ngọt hậu bền lâu ấy, là cả một câu chuyện dài câu chuyện của đất, của người và của tình yêu bền bỉ dành cho giống chè không thể thay thế.