Tân Sơn, một huyện miền núi của tỉnh Phú Thọ từ lâu đã được biết đến với những đồi chè xanh mướt, trải dài khắp các xã như Mỹ Thuận, Minh Đài, Long Cốc hay Tam Thanh. Với tổng diện tích trên 3.880 ha chè, trong đó có gần 3.780 ha đang cho sản phẩm, Tân Sơn là địa phương sở hữu vùng nguyên liệu chè lớn nhất tỉnh. Tuy nhiên, để chè không chỉ là cây trồng chủ lực mà còn là động lực phát triển nông nghiệp bền vững, Tân Sơn đã chọn cho mình một hướng đi chiến lược: xây dựng và phát triển chuỗi liên kết sản xuất, chế biến và tiêu thụ chè theo hướng an toàn và gia tăng giá trị.
Nhờ xây dựng chuỗi liên kết sản xuất và tiêu thụ sản phẩm chè xanh, HTX sản xuất chè an toàn Long Cốc đã có 4 sản phẩm đạt tiêu chuẩn OCOP.
Trước đây, sản xuất chè ở Tân Sơn chủ yếu là manh mún, nhỏ lẻ, phần lớn phục vụ tiêu dùng nội địa với giá trị gia tăng thấp. Các sản phẩm chè đen, chè xanh dạng thô khó cạnh tranh về chất lượng và thương hiệu. Đầu ra không ổn định khiến thu nhập người trồng chè bấp bênh, ít có động lực đầu tư cải tiến kỹ thuật.
Chính vì vậy, việc hình thành các chuỗi liên kết sản xuất và tiêu thụ chè không chỉ giải quyết bài toán thị trường mà còn góp phần nâng cao ý thức trách nhiệm của người dân trong quá trình sản xuất. Khi tham gia chuỗi, người nông dân hiểu rằng chỉ khi tạo ra sản phẩm đạt chuẩn từ quy trình trồng trọt, chăm sóc đến thu hái và chế biến thì chè mới thực sự “có giá”.
Mô hình chuỗi liên kết chè ở Tân Sơn không chỉ dừng lại ở việc ký hợp đồng tiêu thụ giữa hợp tác xã và nông dân, mà còn được xây dựng như một hệ sinh thái khép kín, nơi HTX đóng vai trò điều phối kỹ thuật, nông dân là người trực tiếp sản xuất, và doanh nghiệp là đầu mối tiêu thụ, phát triển thương hiệu.
Tiêu biểu là chuỗi liên kết do HTX Sản xuất chè an toàn Long Cốc chủ trì, với vùng nguyên liệu 15ha đạt chứng nhận VietGAP. Từ khâu kiểm soát phân bón, nguồn nước tưới, thời điểm thu hái đến quy trình sao sấy bằng hệ thống điện, gas hiện đại thay cho bếp củi tất cả đều tuân thủ quy chuẩn nghiêm ngặt. Nhờ đó, sản phẩm chè của HTX không chỉ đạt tiêu chuẩn an toàn thực phẩm mà còn có chất lượng ổn định, dễ dàng đưa vào chuỗi phân phối trong nước và xuất khẩu.
Cũng tại Tân Sơn, chuỗi liên kết do HTX Dịch vụ Nông lâm nghiệp Xuân Đài thực hiện, gắn với thương hiệu chè vùng đệm Vườn quốc gia Xuân Sơn, đang phát triển mạnh mẽ. Với vùng nguyên liệu 16ha đạt chứng nhận VietGAP và 2 sản phẩm OCOP, mô hình này đã giúp người dân có thu nhập ổn định, giảm thiểu rủi ro giá cả và tăng cường sự gắn kết giữa sản xuất và tiêu thụ.
Bên cạnh việc tổ chức lại sản xuất, Tân Sơn còn tích cực ứng dụng khoa học kỹ thuật và công nghệ chế biến hiện đại. Hệ thống sao bằng gas, điện, máy sấy, máy vò, máy hút chân không... được triển khai rộng rãi thay cho phương thức thủ công. Điều này không chỉ giúp gia tăng năng suất, độ đồng đều sản phẩm mà còn đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm yếu tố quan trọng để bước vào các thị trường khó tính.
Không dừng lại ở kỹ thuật, huyện còn hướng đến chuẩn hóa sản phẩm thông qua chương trình “Mỗi xã một sản phẩm” (OCOP). Đến nay, toàn huyện đã có 8 sản phẩm chè đạt chuẩn OCOP, góp phần nâng cao hình ảnh và giá trị của chè Tân Sơn trên thị trường.
Nhận diện được tiềm năng to lớn từ cây chè, Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Tân Sơn đã ban hành Nghị quyết số 05-NQ/HU ngày 19/02/2021 về phát triển sản phẩm nông lâm nghiệp chủ lực, đặc thù theo chuỗi liên kết giai đoạn 2021–2025. Cây chè được xác định là nhóm sản phẩm mũi nhọn, được ưu tiên hỗ trợ về vốn, kỹ thuật, xúc tiến thương mại và xây dựng thương hiệu.
Tính đến nay, trên địa bàn huyện đã hình thành được 5 chuỗi liên kết sản xuất và tiêu thụ chè có hiệu quả cao, ngoài ra còn có thêm 3 mô hình liên kết gắn với OCOP đang phát huy hiệu quả như HTX Hoàng Văn, HTX Mường Cúc, cơ sở chế biến chè Quý Lê...
Những chuỗi liên kết này không chỉ đơn thuần giúp tiêu thụ sản phẩm mà còn góp phần thay đổi tư duy sản xuất của người dân từ ngắn hạn sang dài hạn, hướng đến phát triển bền vững, thích ứng với thị trường và biến động khí hậu.
Không chỉ đơn thuần là một loại nông sản, cây chè đang từng bước trở thành biểu tượng của kinh tế xanh, sinh kế bền vững và bản sắc địa phương ở Tân Sơn. Thông qua các chuỗi liên kết, người nông dân được “trao quyền”, được đào tạo kỹ năng, tiếp cận thị trường và quan trọng nhất là được đảm bảo lợi ích hài hòa.
Từ những nỗ lực hiện tại, có thể tin rằng, nếu tiếp tục được đầu tư đúng hướng cả về hạ tầng, cơ chế hỗ trợ lẫn truyền thông thương hiệu thì chè Tân Sơn sẽ không chỉ chinh phục thị trường trong nước mà còn vươn xa ra thị trường quốc tế với vị thế mới: sản phẩm chất lượng cao từ một vùng đất biết cách làm nông nghiệp thông minh và nhân văn.