Phú Thọ, vùng đất trung du trù phú, từ lâu đã được biết đến như một “thủ phủ chè” của miền Bắc, với điều kiện tự nhiên thuận lợi cho cây chè sinh trưởng và phát triển. Địa hình trung du cùng khí hậu mát mẻ, đất phù sa màu mỡ đã giúp chè Phú Thọ không chỉ đạt năng suất cao mà còn mang hương vị đặc trưng, được thị trường trong nước và quốc tế ưa chuộng. Hiện nay, toàn tỉnh Phú Thọ có khoảng 14,5 nghìn ha chè đang cho thu hoạch, trong đó trên 95% diện tích thuộc giống chè năng suất, chất lượng cao, như LDP1, LDP2, PH1 phục vụ chế biến chè đen xuất khẩu; cùng những giống đặc sản như Kim Tuyên, Bát Vân Tiên, Ô Long phục vụ chế biến chè xanh.
Phú Thọ có 14,5 nghìn ha chè, chủ yếu là giống năng suất cao và đặc sản, phục vụ chế biến chè xanh, chè đen xuất khẩu.
Trong những năm gần đây, Phú Thọ đã chủ động triển khai nhiều giải pháp phát triển cây chè theo hướng bền vững. Tỉnh khuyến khích nông dân mở rộng diện tích, áp dụng các giống chè có năng suất và chất lượng tốt, đồng thời nâng cao trình độ kỹ thuật chăm sóc, thu hoạch và chế biến. Những nỗ lực này đã giúp Phú Thọ vươn lên đứng thứ tư về diện tích và thứ ba về sản lượng chè toàn quốc, tạo cơ hội cho hàng nghìn hộ dân, hợp tác xã và doanh nghiệp tham gia chuỗi giá trị chè.
Bên cạnh sản lượng, chất lượng chè Phú Thọ được nâng cao nhờ hệ thống quản lý tiên tiến. Hiện có 60 cơ sở chế biến có công suất trên 1 tấn búp tươi mỗi ngày, 24 doanh nghiệp áp dụng ISO và HACCP, cùng 15 hợp tác xã và 18 làng nghề chế biến truyền thống. Các quy trình sản xuất được kiểm soát chặt chẽ từ khâu trồng, thu hoạch đến chế biến, bảo quản, nhằm đảm bảo an toàn thực phẩm và chất lượng đồng nhất. Điều này cũng tạo nền tảng vững chắc cho việc xuất khẩu chè Phú Thọ đến các thị trường khó tính như Đức, Mỹ, Hà Lan, Nhật Bản, và các thị trường truyền thống như Ấn Độ, Trung Quốc, Pakistan.
Một điểm nổi bật của chè Phú Thọ là sự kết hợp giữa truyền thống và công nghệ hiện đại. Tỉnh Phú Thọ đã triển khai các mô hình sản xuất chè an toàn theo chuẩn hữu cơ và GAP, hạn chế hóa chất, áp dụng công nghệ sinh học, cơ giới hóa trong sản xuất và chế biến, đồng thời phát triển các dòng sản phẩm chế biến sâu như chè xanh chất lượng cao, chè Ô Long, matcha và các loại nước uống từ chè nguyên liệu. Các vùng nguyên liệu tập trung, như 70 vùng sản xuất với diện tích 5,8 nghìn ha, đảm bảo nguồn cung ổn định cho chế biến và xuất khẩu.
Phú Thọ cũng chú trọng xây dựng thương hiệu chè quốc gia. Năm 2020, nhãn hiệu chứng nhận “Chè Phú Thọ” được cấp văn bằng bảo hộ, hiện có 15 tổ chức, doanh nghiệp, hợp tác xã được cấp quyền sử dụng. Nhãn hiệu không chỉ giúp sản phẩm có giá trị nhận diện rõ ràng, mà còn nâng cao sức cạnh tranh trên thị trường, đảm bảo truy xuất nguồn gốc 100% sản phẩm và kiểm soát chất lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm nghiêm ngặt. Các hoạt động xúc tiến thương mại, quảng bá, kết nối thị trường trong và ngoài nước đã đưa chè Phú Thọ từ một sản phẩm địa phương trở thành thương hiệu quốc gia được tin dùng.
Các ngành, địa phương cũng triển khai đồng bộ nhiều giải pháp phát triển sản xuất, hỗ trợ doanh nghiệp, hợp tác xã nâng cao năng suất, chất lượng và mở rộng thị trường tiêu thụ. Sở Khoa học và Công nghệ, Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, cùng Sở Công Thương đã phối hợp thực hiện các dự án hỗ trợ ứng dụng công nghệ cao, cơ giới hóa, quản lý chất lượng, xây dựng vùng nguyên liệu an toàn và phát triển các sản phẩm OCOP từ chè.
Với những nỗ lực này, chè Phú Thọ không chỉ là nguồn thu nhập ổn định cho hàng nghìn hộ dân mà còn trở thành biểu tượng văn hóa, kinh tế đặc trưng của tỉnh. Hương thơm đậm đà, vị chát dịu, nước chè xanh tinh khiết không chỉ làm say lòng người tiêu dùng trong nước mà còn góp phần nâng tầm sản phẩm Việt trên thị trường quốc tế. Từ vùng nguyên liệu giàu tiềm năng, chè Phú Thọ đã vươn lên trở thành thương hiệu quốc gia, mở ra triển vọng bền vững cho nông nghiệp, kinh tế địa phương và giá trị văn hóa dân tộc.