Toàn tỉnh hiện phân chia vùng trồng chè thành hai khu vực chính là vùng đồi thấp chuyên trồng các giống chè phục vụ chế biến công nghiệp, chiếm 84% diện tích và vùng núi cao chuyên trồng chè Shan tuyết đặc sản tại các huyện Na Hang và Lâm Bình, chiếm 16%.
Trong nỗ lực thay đổi cơ cấu giống, Tuyên Quang đã đưa vào nhiều giống chè có chất lượng cao và giá trị kinh tế vượt trội như Kim Tuyên, Ngọc Thúy, Phúc Vân Tiên. Đến nay, diện tích chè lai và đặc sản đã chiếm hơn 70% tổng diện tích, giúp hình thành các làng chè nổi tiếng như Chè Làng Bát (xã Tân Thành, Hàm Yên), Chè Shan tuyết (xã Hồng Thái, Na Hang), Chè Vĩnh Tân (xã Tân Trào, Sơn Dương). Sự đổi mới này đã tạo công ăn việc làm cho hàng trăm hộ dân và giúp nhiều gia đình có nguồn thu nhập ổn định, góp phần phát triển kinh tế địa phương theo hướng bền vững.
Việc áp dụng các tiêu chuẩn sản xuất sạch như VietGAP đã giúp nâng cao giá trị sản phẩm. Ví dụ, tại Làng Bát, các hộ dân trồng chè LDP1 và cung cấp ra thị trường với giá 180.000 đồng/kg, đem lại mức lợi nhuận trung bình khoảng 200 triệu đồng/ha/năm.
Câu chuyện thành công của ông Nguyễn Văn Tái, người dân thôn Làng Bát, minh chứng cho hiệu quả của việc tuân thủ quy trình sản xuất an toàn. Với hơn 1 ha chè, gia đình ông thu về lãi hơn 200 triệu đồng mỗi năm nhờ tuân thủ quy chuẩn chất lượng, từ đó mở rộng thị trường cho sản phẩm chè địa phương tại các siêu thị trên toàn quốc.
Nhiều hộ dân tại Tuyên Quang đã áp dụng hệ thống tưới tự động, giúp tiết kiệm công lao động và nâng cao năng suất. Điển hình là hộ ông Vũ Văn Bẩy, thôn Thọ Bằng (xã Mỹ Bằng), với 2 ha chè LDP1. Nhờ hệ thống tưới tự động, gia đình ông chỉ cần bật công tắc 1 lần mỗi tuần trong 2 tiếng để tưới đều toàn bộ diện tích. Kết quả, năng suất chè tăng 20% so với phương pháp tưới thủ công trước đây. Với mỗi vụ thu hoạch, gia đình ông Bẩy thu được 30 tấn chè búp tươi, đạt mức thu nhập khoảng 120 triệu đồng/năm.
Giống chè Bát Tiên, được trồng tại xã Mỹ Bằng từ năm 2003, đã trở thành một sản phẩm chủ lực của địa phương. Năm 2013, sản phẩm này được Cục Sở hữu trí tuệ cấp nhãn hiệu "Chè Bát Tiên Mỹ Bằng," tạo cơ hội cho hợp tác xã (HTX) nông lâm nghiệp Mỹ Bằng mở rộng thị trường xuất khẩu. Sản phẩm chè này hiện được xuất khẩu sang Nhật Bản với giá 520.000 đồng/kg - cao gấp 2-2,5 lần so với các sản phẩm cùng loại trên thị trường. Giá chè búp tươi trong nước cũng đạt từ 18.000 - 40.000 đồng/kg, giúp nâng cao đời sống của người dân và thúc đẩy phát triển các làng nghề truyền thống.
Tuyên Quang đang từng bước xây dựng các làng nghề chè gắn với chuỗi giá trị, tạo ra sản phẩm chất lượng cao. Nổi bật là làng chè Vĩnh Tân (Tân Trào), nơi sản phẩm đã đạt giải thưởng "Búp chè Vàng" tại Festival chè Thái Nguyên.
Các làng nghề như Đồng Hoan, Liên Phương, và Đồng Đài không chỉ sản xuất mà còn chế biến sâu, giúp tăng giá trị cho sản phẩm chè. Đồng thời, tỉnh cũng khuyến khích các doanh nghiệp và người dân tham gia vào các chương trình hỗ trợ máy móc và vốn vay nhằm phát triển sản xuất bền vững.
Hiện tại, hơn 80% diện tích chè của tỉnh đã được thay thế bằng các giống mới có năng suất cao. Khoảng 1.300 ha chè được canh tác theo tiêu chuẩn VietGAP, hữu cơ và Rainforest Alliance. Ngoài ra, 30 sản phẩm chè của tỉnh đã được xếp hạng OCOP từ 3 - 4 sao, mở ra cơ hội phát triển bền vững cho ngành chè.
Sự đổi mới trong cơ cấu giống và áp dụng kỹ thuật sản xuất hiện đại đang giúp Tuyên Quang khẳng định vị thế trong ngành chè của Việt Nam. Các giống chè đặc sản và mô hình sản xuất theo tiêu chuẩn quốc tế không chỉ cải thiện thu nhập cho người dân mà còn nâng cao năng lực xuất khẩu. Với sự hỗ trợ từ các chính sách khuyến nông và khuyến công, ngành chè Tuyên Quang đang tiến tới phát triển bền vững, tạo ra giá trị gia tăng cao cho sản phẩm. Đây là minh chứng rõ nét cho việc tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng nâng cao chất lượng và phát triển kinh tế xanh.