Trà quán vỉa hè – Nếp sinh hoạt bình dị của người Hà Nội

Không ồn ào, không sang trọng, quán trà vỉa hè Hà Nội lại hấp dẫn bởi sự thân thuộc. Ở đó, một chén trà nóng đủ để khơi mở câu chuyện và làm chậm lại guồng quay đô thị.

Nhắc đến Hà Nội, nhiều người nghĩ ngay đến những quán trà vỉa hè – một hình ảnh quen thuộc đã trở thành một phần trong đời sống đô thị. Dẫu dưới góc nhìn quản lý đô thị, hàng quán trên vỉa hè đôi khi bị coi là nhếch nhác, lấn chiếm lòng đường, nhưng không thể phủ nhận: đó cũng là một nếp sinh hoạt, một mảnh ghép văn hóa của người dân nơi đây.

Trà quán vỉa hè – Nếp sinh hoạt bình dị của người Hà Nội - Ảnh 1

Gia đình một người bạn tôi sống ở khu phố cổ, gần hồ Hoàn Kiếm. Ngôi nhà vốn chật hẹp, nhưng có chút mặt tiền. Khi về hưu, vợ chồng anh mở quán nước chè kèm bán thêm quà sáng và đồ tạp hóa: từ bánh kẹo, thuốc lá, thuốc lào đến nước ngọt, bút bi, sách vở… Những món nhỏ nhặt ấy cộng lại, cũng đủ bù đắp phần nào cho khoản lương hưu ít ỏi, giúp cuộc sống nơi phố thị bớt chật vật.

Ở Hà Nội, loại trà bán chạy nhất tại các quán vỉa hè vẫn là trà mạn – thức uống quen thuộc, bình dân, hợp khẩu vị nhiều người, đặc biệt là tầng lớp lao động. Phổ biến nhất vẫn là chè Thái Nguyên, vừa “vừa túi tiền”, vừa giữ được hương vị đậm đà, nên hầu như quán nào cũng có.

Chưa có con số thống kê chính thức, nhưng chỉ riêng Hà Thành có thể đã có đến hàng nghìn quán trà vỉa hè – mỗi nơi một kiểu: chỗ bán trong nhà nhưng khách ngồi tràn ra vỉa hè, chỗ chiếm trọn vỉa hè làm quán. Giá cả cũng rất “trà chén”: chỉ từ 2.000 – 5.000 đồng một chén; loại ngon hơn cũng chỉ 5.000 – 7.000 đồng. Trà nóng, trà đá cốc to đều phổ biến.

Cách bán trà của người Hà Nội cũng đa dạng. Nhiều người pha trà trong ấm tích sứ, ủ trong giỏ tre, bọc rơm hay xốp để giữ nhiệt, giúp trà “chín” kỹ. Có người còn đeo hẳn chiếc ấm to như balô, rong ruổi khắp bến xe, bến tàu, công trường, ngõ ngách… miễn không phải khu vực cấm, ở đâu có khách là ở đó có trà. Khi hết nước nóng, họ lại châm thêm để ấm trà luôn sẵn sàng, đậm vị.

Nhiều gia đình sống bằng nghề quán nước chè qua năm tháng, đủ nuôi con cái ăn học, trưởng thành, dựng vợ gả chồng. Thậm chí, có người chỉ nhờ hàng nước mà còn mua thêm được nhà mới. Không lạ khi người ta vẫn nói: “Giàu có nhà quê không bằng ngồi lê thành phố”. Có lẽ cũng từ những quán trà như vậy mà dòng người từ nông thôn đổ về thành phố tìm kế sinh nhai ngày một nhiều, góp phần làm nên nhịp sống phố thị hôm nay.

Một quán trà đông khách còn phụ thuộc vào sự khéo léo của chủ quán: chiều khách, biến hóa theo mùa, từ trà mạn, trà đá đến nước vối, nước chè buồm, chè đỗ đen, bột sắn dây… Ai muốn cốc trà ngon, chủ quán sẵn sàng pha, dù biết bán chè ngon chẳng lãi bao nhiêu. Bởi khách uống trà thường kèm thêm điếu thuốc, chiếc kẹo, cái bánh – chính những món ấy mới là phần bù. Quán nào gần hàng phở, bún cá, bánh cuốn buổi sáng lại càng đắt khách hơn: người Hà Nội, sau khi ăn quà sáng, ngoài cà phê, vẫn thích làm thêm chén trà mạn – lúc thong thả thì gọi cả ấm, khi vội vàng thì nhấp một chén.

Uống trà vỉa hè đã thành một thú vui tao nhã mà dân dã. Người về hưu, người có việc nhưng không vội vã, thường chọn quán trà ven đường để ngồi nhẩn nha, ngắm phố phường, tận hưởng nhịp sống chậm. Người Hà Nội vẫn bảo nhau: “Hà Nội không vội được đâu. Muốn nhanh thì phải từ từ”. Bên chén trà mạn nóng hổi, cùng tiếng rao quen thuộc của hàng rong, hương cốm làng Vòng, xôi Phú Thượng, bánh rán mặn – ngọt, hay giỏ hoa tươi thắm… tất cả làm nên một bản hòa ca riêng của phố phường.

Chuyện quanh chén trà chưa bao giờ có hồi kết. Ấy là những phút giây sẻ chia niềm vui, vơi bớt nỗi buồn, từ ngày xưa “nông cổ mím đàm” đến nay bàn đủ chuyện trên trời dưới bể. Một chén trà nhỏ mà gom đủ cả hồn phố, tình người.

VĂN HÙNG

Từ khóa: