Vài nét về cây chè

Văn hóa Việt Nam gắn liền với thói quen uống nước chè và thưởng thức vị của nó. Bên cạnh tác dụng là một thức uống hằng ngày, chè ngày nay đã trở thành một ngành nghề kinh doanh trong và ngoài nước mang lại giá trị kinh tế cao.

Năm1933, ông J.JB.Denss, một chuyên viên chè người Hà Lan, nguyên giám đốc viện nghiên cứu chè Buitenzorg ở Java (Indonexia), cố vấn các công ty chè Đông dương thời Pháp, sau khi đi khảo sát chè cổ Tham vè tại xã Cao Bộ (huyên Vị Xuyên, tỉnh Hà Giang) đã viết về nguồn gốc cây chè trên thế giới…Trong đó có viết: ”Điểm cần chú ý là ở những nơi mà con người tìm thấy cây chè, bao giờ cũng ở cạnh con sông lớn, nhất là sông Dương Tử, sông Tsi Kiang ở Trung Quốc, sông Hồng ở Vân Nam và ở Bắc Kỳ (Việt Nam ), sông MêKông ở Vân Nam, Thái Lan và Đông Dương…tất cả những con sông đó đều bắt nguồn từ dãy núi phía đông Tây Tạng”. Vì lý do này Ông cho rằng nguồn gốc cây chè là từ dãy núi này phân tán đi.

Năm 1976, Demukhatze, Viện sỹ Thông tấn, Viện Hàn lâm khoa học Liên Xô nghiên cứu sự tiến hoá của cây chè bằng cánh phân tích chất cafein trong chè mọc hoang dã và chè do con người trồng ở các vùng khác nhau trên thế giới, trong đó có các vùng chè cổ ở Việt Nam (suối Giàng, Nghĩa Lộ, Lạng Sơn, Nghệ An…). Tác giả đã kết luận: Cây chè cổ Việt Nam tổng hợp các chất cafein đơn giản nhiều hơn cây chè Vân Nam Trung Quốc và như vậy, các chất cafein phức tạp ở cây chè Vân Nam nhiều hơn ở cây chè Việt Nam. Do đó tác giả đã đề xuất sơ đồ tiến hoá cây chè như sau: Camelia - chè Việt Nam - chè Vân Nam lá to - chè Trung Quốc - chè Assam ấn Độ.

Qua phân tích nhiều nhà khoa học cho rằng, Việt Nam là một trong những cái nôi của cây chè. Ngoài những giống chè có sẵn trên đồi núi từ những giống “chè rừng” như chè Shan tuyết Việt Nam đã nhập khẩu thêm một số giống mới từ Đài Loan, Trung Quốc, Nhật Bản…

Tác dụng của chè đối với sức khỏe

Chè là một cây công nghiệp dài ngày, trồng trọt một lần cho thu hoạch nhiều năm, từ 30-50 năm. Người ta trồng chè để lấy búp chè có một tôm và 2-3 lá .

Từ lá chè tuỳ theo cách chế biến chè và công nghệ chế biến để cho ra các loại chè khác nhau: chè xanh, chè đen, chè vàng, hoà tan …

Chè có nhiều vitamin có giá trị dinh dưỡng và bảo vệ sức khoẻ, có tác dụng giải khát, bổ dưỡng và kích thích hệ thần kinh trung ương, giúp tiêu hoá các chất mỡ, giảm được bệnh béo phì, chống lão hoá… Do đó, nước chè đã trở thành thứ nước uống của nhân loại.

Ngày nay, hầu hết dân cư trên thế giới dùng nước chè làm nước uống hàng ngày. Một số nước uống chè thành tập quán và tạo ra được một nền văn hoá nguyên sơ là “văn hoá trà”. Ngoài để uống, người ta còn dùng nước chè xanh để rửa ráy các vết thương những chỗ lở loét, nhiễm trùng trên cơ thể. Vì thế chè không những có tên trong danh mục giải khát mà còn có tên trong từ điển y hoc, dược học. Người Nhật Bản khẳng định chè cứu người khỏi bị nhiễm xạ và gọi đó là thứ nước uống của thời đại nguyên tử. Ở vùng Tây Nam Trung Quốc thời cổ đại cùng khung cảnh văn hoá với nước ta đã dùng lá chè làm vật trao đổi ngang giá với thứ thuốc tiên.

Trong dân gian Việt Nam ngày xưa có câu “trà tam, tửu tứ”, ấm trà, chén rượu rất quen thuộc với chúng ta. Nhấm nháp chút men nồng của rượu, thưởng thức hương vị thơm ngon của trà vừa là một hoạt động ăn uống có ý nghĩa thực dụng, vừa là biểu hiện của “văn hoá ăn uống” đòi hỏi trình độ thưởng thức cao và nâng nó nên thành một nghệ thuật uống trà, thưởng thức trà. Đồng thời, “trà tam, tửu tứ” của cổ nhân đã làm cho con người giải toả được lo toan thường nhật, làm phong phú thêm đời sống tinh thần và làm tăng thêm ý nghĩa văn hoá cho sinh hoạt đời thường.

Chè có giá trị sử dụng và là hàng hoá có giá trị kinh tế cao, chè là một sản phẩm xuất khẩu có giá trị trên thị trường thế giới. Thị trường trong nước đòi hỏi về chè ngày càng nhiều với yêu cầu chất lượng ngày càng cao. Chè là một cây có hiệu lực khai thác vùng đất đai rộng lớn của trung du, miền núi, phủ xanh đất trống, đồi núi trọc, bảo vệ môi trường sinh thái. Cây chè sống quanh năm và tương đối nhiều, tạo công ăn việc làm không những cho lao động chính mà cả cho lao động phụ (người già, trẻ em), có tác dụng điều hoà lao động từ vùng đồng bằng lên vùng trung du, miền núi thưa thớt.

Những nhân tố ảnh hưởng tới hoạt động xuất khẩu chè

Thị trường tiêu thụ chè là nơi diễn ra hoạt động mua bán nông sản phẩm, là khâu trung gian nối giữa sản xuất và tiêu dùng. Cho nên hoạt động xuất khẩu chè chịu ảnh hưởng của cả các nhân tố trong giai đoạn sản xuất và các nhân tố trong giai đoạn lưu thông, tiêu dùng. Tác động đến hoạt động xuất khẩu chè có nhiều nhân tố khác nhau. Đứng trên góc độ doanh nghiệp chúng ta có thể phân loại các nhân tố theo hai nhóm cơ bản sau:

  • Nhóm nhân tố bên trong: Nhân tố về vốn vật chất hay sức mạnh về tài chính

Trong kinh doanh nếu không có vốn thì doanh nghiệp cũng không làm được gì ngay cả khi đã có cơ hội kinh doanh. Có vốn giúp doanh nghiệp thực hiện các hoạt động kinh doanh của mình một cách dễ dàng hơn, có điều kiện tận dụng các cơ hội để thu lợi lớn. Đặc biệt, mặt hàng chè là mặt hàng nông sản, nếu công ty có vốn lớn sẽ có điều kiện để mua hàng tại thời điểm có lợi nhất với giá rẻ nhất và sẽ xuất bán khi nhu cầu của khách hàng tăng lên.

Sự trường vốn cũng tạo ra khả năng nắm bắt thông tin nhanh chóng hơn, chính xác hơn do có điều kiện sử dụng các thông tin hiện đại. Ngoài ra, nó còn cho phép công ty thực hiện các công cụ maketing quốc tế trên thị trường về giá cả, cách thức phân phối, hoạt động quảng cáo và xúc tiến bán hàng, do vậy mà tạo điều kiện xuất khẩu được nhiều hơn.

Hiện nay hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu chủ yếu từ 3 nguồn lớn: Vốn do nhà nước cấp, vốn tự có, và vốn vay ngân hàng. Ước tổng vốn đầu tư xây dựng cơ bản hiện nay trên 53 tỷ đồng.

  • Nhân tố con người:

Trình độ chuyên môn và năng lực làm việc của mỗi thành viên là yếu tố cơ bản quyết định sự thành công trong kinh doanh. Xét về tiềm lực công ty, con người là vốn quý nhất đánh giá sức mạnh của công ty đó như thế nào. Trong hoạt động xuất nhập khẩu từ khâu nghiên cứu thị trường, tìm kiếm nguồn hàng, khách hàng đến công tác giao dịch kí kết hợp đồng, thực hiện hợp đồng nếu thực hiện bởi những cán bộ nhanh nhẹn, trình độ chuyên môn cao và lại có kinh nghiệm thì chắc chắn sẽ đem lại hiệu quả cao, hoạt động xuất khẩu cũng sẽ được tiến hành một cách liên tục và suôn sẻ.

Nhân tố con người còn bao gồm cả sức khoẻ, khả năng hoà nhập cộng đồng, khả năng giao tiếp, ngôn ngữ… 

Các quan hệ kinh tế quốc tế

Khi xuất khẩu hàng hàng hoá từ quốc gia này sang quốc gia khác, người xuất khẩu phải đối mặt với hàng rào thuế quan và phi thuế quan, các hàng rào chặt chẽ hay lỏng lẻo phụ thuộc chủ yếu vào quan hệ kinh tế song phương giữa nước nhập khẩu và nước xuất khẩu.

Xét về phương diện doanh nghiệp, các quan hệ kinh tế quốc tế có ảnh hưởng tới thị trường xuất khẩu. Đây là yếu tố quan trọng bảo đảm cho hoạt động xuất khẩu có thực hiện được hay không đồng thời cũng quyết định các hình thức, yêu cầu với hoạt động xuất khẩu. Thật vậy, ứng với mỗi loại thị trường, khách hàng ở đó cũng có những đặc điểm tiêu thụ khác nhau, họ cũng có những yêu cầu khác nhau đối với từng loại sản phẩm và cách thức mua bán. Mặt khác ta cũng thấy: Việc xuất khẩu chè phụ thuộc rất lớn vào thị trường thế giới. Bởi Việt Nam là nước đang phát triển tiếng nói chưa có trọng lượng, lại chỉ xuất khẩu chè chiếm khoảng 2-3 % tổng sản lượng chè thế giới thì chỉ có cách chấp nhận giá mà thôi.

Ngày nay trong xu hướng toàn cầu hoá nền kinh tế, nhiều liên minh kinh tế ở mức độ khác nhau được hình thành, nhiều hiệp định thương mại song phương và đa phương giữa các quốc gia, các tổ chức kinh tế cũng được ký kết với mục tiêu thúc đẩy hoạt động thương mại trong khu vực và toàn thế giới. Là một quốc gia tham gia vào liên minh và các hiệp định thương mại ấy sẽ là một tác nhân tích cực thúc đẩy hoạt động xuất khẩu ở một quốc gia.

Tóm lại, có được các mối quan hệ quốc tế mở rộng, bền vững và tốt đẹp sẽ tạo những tiền đề thuận lợi cho việc đẩy mạnh xuất khẩu của một quốc gia, trong đó có doanh nghiệp.

Những nhân tố thuộc về công nghệ chế biến chè

Đối với lĩnh vực sản xuất hàng xuất khẩu, việc nghiên cứu và đưa vào ứng dụng công nghệ có tác dụng làm tăng hiệu quả của công tác này. Các thành tựu khoa học kỹ thuật sẽ giúp cho các đơn vị sản xuất tạo ra những sản phẩm mới có chất lượng cao và mẫu đa dạng hơn. Điều này thấy rõ nhất là nhờ sự phát triển của bưu chính, viễn thông, tin học mà các đơn vị ngoại thương có thể đàm phán, ký kết hợp đồng với các đối tác qua điện thoại, điện tín… giảm chi phí đi lại.

Vài nét về cây chè - Ảnh 1

Bên cạnh đó, khoa học công nghệ còn có tác động vào các lĩnh vực như vận tải hàng hoá, bảo hiểm hàng hoá, kỹ thuật nghiệp vụ ngân hàng… Đó cũng là nhân tố ảnh hưởng tích cực đến hoạt động xuất khẩu.

Để tăng tính cạnh tranh của sản phẩm chè trên thị trường thế giới thì công nghệ là yếu tố không thể thiếu. Công nghệ trồng trọt, thu hái, chế biến hiện đại sẽ làm tăng giá trị và giá trị sử dụng của chè. Đặc biệt là ngành công nghiệp chế biến chè phát triển sẽ làm gia tăng các sản phẩm xuất khẩu tinh thay thế hoàn toàn chiến lượng xuất khẩu chè thô. Tăng xuất khẩu tinh vừa mang lại hiệu quả kinh tế vừa giải quyết công ăn việc làm cho hàng triệu người lao động .

Phát triển thị trường chè xuất khẩu phải gắn liền với khả năng đảm bảo nguồn chè xuất khẩu ổn định là điều kiện cần và đủ để tồn tại và phát triển nguồn cung cấp chè ở nước ta. Nguồn cung cấp chè phải đủ lớn và ổn định cho nhu cầu xuất khẩu ngày càng tăng.

Ở Việt Nam hiện nay, tiềm năng chè là rất lớn. Chè là cây công nghiệp dài ngày, được trồng ở các tỉnh Trung Du và miền núi. Sản xuất đang ngày càng đóng vai trò quan trọng cải thiện đời sống nhân dân vùng trồng chè, góp phần vào sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá nông thôn, phát triển kinh tế trung du và miền núi .

Duy Cảnh (T/h)