Vì sao cảng Chân Mây cần tới 900 tỷ đồng cho giai đoạn 3 đê chắn sóng?

Thành phố Huế vừa đề xuất Trung ương bố trí 900 tỷ đồng đầu tư Đê chắn sóng phía Bắc cảng Chân Mây giai đoạn 3. Công trình này giúp củng cố hạ tầng và ổn định sinh kế ven biển, đồng thời ứng phó hiệu quả với bão lũ lịch sử.

Sau các đợt bão, mưa lũ kéo dài trong tháng 10–11/2025 khiến hạ tầng đô thị và khu vực ven biển của thành phố Huế bị tổn thất nặng, địa phương đã căn cứ quy định quản lý hoạt động hàng hải theo Nghị định 34/2025/NĐ-CP để xây dựng hồ sơ, kiến nghị Trung ương xem xét hỗ trợ vốn cho các công trình có tính chiến lược và bền vững trong thích ứng thiên tai bất thường, do tác động của biến đổi khí hậu.

Dự án đê chắn sóng cảng Chân Mây giai đoạn 2 ở Khu kinh tế Chân Mây-Lăng Cô. (Ảnh: Vũ Sinh/TTXVN)
Dự án đê chắn sóng cảng Chân Mây giai đoạn 2 ở Khu kinh tế Chân Mây-Lăng Cô. (Ảnh: Vũ Sinh/TTXVN)

Đáng chú ý, thành phố Huế đề xuất đầu tư xây dựng đê chắn sóng phía Bắc cảng Chân Mây giai đoạn 3, với tổng mức đầu tư 900 tỷ đồng. Đây là hạng mục tiếp nối hai giai đoạn đã hoàn thành và đang triển khai trước đó, nhằm tạo “lá chắn” bảo vệ hạ tầng cảng trong mùa mưa bão, đồng thời bảo đảm an toàn cho tàu thuyền và hoạt động logistics, những mắt xích quan trọng trong bình ổn hàng hóa và sinh kế người lao động tại khu vực miền Trung.

Giai đoạn 1 của dự án, được thực hiện từ năm 2018–2020 với kinh phí hơn 700 tỷ đồng, chiều dài 450 m, kết cấu thân đê bằng đá phủ bê tông, giúp thời gian khai thác tại các bến số 1–3 ổn định trên 97%/năm, góp phần nâng cao mức độ an toàn khai thác và giảm rủi ro do sóng lớn, hải lưu. Giai đoạn 2 khởi công tháng 10/2022, chiều dài 300 m, tổng đầu tư gần 760 tỷ đồng, tạo điều kiện khai thác hiệu quả các bến 4–6, đồng thời gia tăng năng lực vận chuyển container và kết nối hàng hải vùng kinh tế trọng điểm miền Trung.

Theo đánh giá tại các hội thảo chuyên ngành, khu vực Chân Mây thường xuyên chịu tác động của sóng lớn, bão mạnh và dòng hải lưu phức tạp; vì vậy, đê chắn sóng không chỉ là hạ tầng kỹ thuật mà còn là công trình an sinh gián tiếp, bảo vệ cầu bến, kho bãi, hạn chế xói lở và giảm nguy cơ gián đoạn vận chuyển hàng hóa trong thiên tai, giúp ổn định thu nhập của người lao động, doanh nghiệp và các dịch vụ phụ trợ.

Song song với kiến nghị đầu tư cảng, thành phố Huế cũng đề xuất Trung ương hỗ trợ kinh phí khoảng 3.000 tỷ đồng để xây dựng hệ thống kênh thoát lũ lớn phía Tây đổ ra vùng Đầm phá Tam Giang – Cầu Hai cùng các tuyến đê, kè bảo vệ bờ biển.

Địa phương có địa hình dốc mạnh theo trục Tây–Đông, các dòng sông lớn như sông Hương và sông Bồ đều có độ dốc lớn và đổ ra phá, khiến vùng hạ du dễ ngập khi mưa lớn kéo dài ở thượng nguồn. Việc mở thêm kênh thoát lũ ra Đầm phá Tam Giang – Cầu Hai được xem là giải pháp giảm ngập bền vững, giúp bảo đảm đời sống người dân vùng đồng bằng, hạn chế thiệt hại trong sản xuất nông nghiệp, thủy sản và bảo vệ hạ tầng đô thị.

Đối với vùng biển, Huế có bờ biển dài 120 km, bị sạt lở nghiêm trọng sau bão lũ cuối năm 2025. Tại Thuận An, bờ biển khu vực Tổ dân phố Hòa Duân sạt lở nặng 1 km, biển xâm thực sâu 50–70 m vào đất liền, đe dọa hạ tầng thiết yếu và dịch vụ du lịch; nguy cơ hình thành cửa biển mới gây bất ổn địa chất, hạ tầng và đời sống cộng đồng.

Tại xã Vinh Lộc, sóng, hải lưu đã xâm thực 2 km bờ biển, ăn sâu 10–30 m, ảnh hưởng trực tiếp đến Tỉnh lộ 21, tuyến giao thông trọng yếu phục vụ đi lại, vận chuyển nông sản, thủy hải sản của người dân vùng ven biển.

Ngoài ra, còn khoảng 5,5 km bờ biển trên địa bàn thành phố Huế bị xâm thực, sạt lở. Địa phương ước tính cần hàng trăm tỷ đồng để khẩn trương xây dựng đê, kè, gia cố bờ biển, nhằm bảo đảm an toàn cho người dân, duy trì hạ tầng, ổn định các hoạt động du lịch, khai thác thủy sản và bảo vệ đất liền khỏi xâm thực.

Kiến nghị hỗ trợ vốn của thành phố Huế thể hiện nỗ lực chủ động, có tầm nhìn dài hạn trong thích ứng biến đổi khí hậu, đồng thời gửi gắm mong mỏi chung tay của các cấp, ngành Trung ương với địa phương miền Trung nơi người dân và lực lượng chức năng đã và đang kiên cường vượt qua thiên tai.

Những công trình chiến lược như đê chắn sóng, kênh thoát lũ và kè biển không chỉ mang ý nghĩa kỹ thuật, kinh tế mà còn gắn liền với bài toán an sinh, bảo vệ sinh kế, gìn giữ môi trường sống bền vững và đảm bảo phát triển hài hòa với thiên nhiên, đúng tinh thần “không để ai bị bỏ lại phía sau” trong hành trình xây dựng cộng đồng an toàn trước biến đổi khí hậu.

Bùi Quốc Dũng