Báo cáo thị trường nông, lâm, thủy sản số ra ngày 31/12 của Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công Thương) cho biết tháng 12/2020, xuất khẩu chè ước đạt 13.000 tấn, trị giá 20 triệu USD, giảm 13,8% về lượng và giảm 17,8% về trị giá so với tháng 12/2019.
Giá chè xuất khẩu bình quân trong tháng 12/2020 đạt 1.538,5 USD/tấn, giảm 4,6% so với tháng 12/2019.
Tính chung cả năm 2020 xuất khẩu chè ước đạt 137.000 tấn, trị giá 220 triệu USD, giảm 0,4% về lượng và giảm 6,8% về trị giá so với năm 2019. Giá chè xuất khẩu bình quân trong năm 2020 ước đạt 1.608,5 USD/tấn, giảm 6,5% so với năm 2019.
Chè đen và chè xanh là hai chủng loại chè xuất khẩu chính trong 11 tháng năm 2020 với lượng xuất khẩu chiếm 82,2% tổng lượng chè. Trong đó, chè đen xuất khẩu trong 11 tháng năm 2020 đạt 51.000 tấn, trị giá 69 triệu USD, tăng 2,7% về lượng và tăng 1,4% về trị giá so với cùng kỳ năm 2019.
Tiếp theo là chủng loại chè xanh xuất khẩu đạt 50.800 tấn, trị giá 91,79 triệu USD, giảm 0,3% về lượng và giảm 12,4% về trị giá so với cùng kỳ năm 2019.
Mặt hàng chè xanh xuất khẩu nhiều nhất tới thị trường Pakistan trong 11 tháng năm 2020 đạt 30.120 tấn, trị giá 58,17 triệu USD, giảm hơn 10% về lượng và giảm 13,8% về trị giá so với cùng kỳ năm 2019. Tỷ trọng xuất khẩu chè xanh tới thị trường này chiếm 28% tổng lượng chè xanh.
Việt Nam hiện đứng thứ 5 trên thế giới về xuất khẩu chè, đứng thứ 7 về sản xuất chè toàn cầu. Sản phẩm chè của Việt Nam hiện đã được xuất sang 74 quốc gia và vùng lãnh thổ. Tuy nhiên, theo đánh giá, khoảng 90% sản lượng chè của nước ta xuất khẩu ở dạng thô, giá bán thấp và được tiêu thụ dưới thương hiệu của các nhà nhập khẩu.
Cùng với đó, hoạt động sản xuất chè còn nhiều hạn chế bất cập... Về cơ bản sản xuất chè của Việt Nam vẫn là sản xuất nông hộ nhỏ, nguyên liệu chè cung cấp cho chế biến chủ yếu từ các giống chè có chất lượng thấp. Ðiều này khiến cho chất lượng sản phẩm chè của nước ta không đồng đều và khó đưa khoa học kỹ thuật vào sản xuất tạo ra những sản phẩm chất lượng cao.
Hồng Anh