Giữa đại ngàn Tây Côn Lĩnh hùng vĩ, có một “báu vật xanh” được người dân gìn giữ qua bao thế hệ, đó là chè Shan Tuyết Cao Bồ, đặc sản trứ danh làm nên tên tuổi vùng cao của tỉnh Tuyên Quang. Không chỉ là một thức uống, Shan Tuyết Cao Bồ còn là kết tinh của đất trời, của khí hậu, thổ nhưỡng, và cả tấm lòng bền bỉ của người Dao nơi miền sơn cước.
Nằm ở độ cao hơn 1.200 mét so với mực nước biển, xã Cao Bồ, tỉnh Tuyên Quang được thiên nhiên ưu đãi khí hậu mát lạnh quanh năm, sương mờ bao phủ và đất đai tơi xốp. Chính môi trường đặc biệt ấy đã tạo điều kiện hoàn hảo để cây chè Shan Tuyết cổ thụ sinh trưởng và phát triển mạnh mẽ. Giữa làn sương bảng lảng mỗi sớm mai, những thân chè rêu phong, cành phủ lớp “tuyết” trắng mịn, lá dày và to như bàn tay người, minh chứng cho sức sống bền bỉ của loài cây chỉ có thể tồn tại nơi núi cao.
Toàn xã Cao Bồ hiện có hơn 1.000 ha chè Shan Tuyết, trong đó 875 ha đang cho thu hoạch.
Người dân địa phương vẫn truyền nhau câu nói: “Chè Shan Tuyết không chỉ mọc trên đất, mà sống cùng mây trời”. Quả thật, mỗi tán chè Shan Tuyết trăm tuổi là một phần của rừng, gắn bó mật thiết với thiên nhiên và hệ sinh thái vùng cao. Chè không cần phân bón hóa học, không thuốc trừ sâu, hoàn toàn sinh trưởng tự nhiên, điều mà ít loại cây trồng nào có được trong thời đại công nghiệp nông nghiệp hiện nay. Chính nhờ sự tinh khiết ấy, từng búp chè Shan Tuyết chứa đựng năng lượng thuần khiết của núi rừng.
Lá Chè Shan Tuyết được người dân thu hái đảm bảo đúng quy trình, chất lượng.
Lá chè Shan Tuyết khi sao khô có màu nâu sẫm ánh bạc, cánh dày, phủ lớp tơ trắng như tuyết, đặc điểm khiến loại chè này có tên gọi độc đáo. Khi pha, nước trà óng vàng như hổ phách, hương nhẹ mà sâu, vị đầu hơi chát dịu rồi ngọt hậu, để lại cảm giác thanh mát và khoan khoái nơi đầu lưỡi. Người sành trà thường ví Shan Tuyết như một “nàng sơn nữ” của núi rừng Tuyên Quang, vừa mạnh mẽ, vừa tinh tế, vừa đậm đà mà vẫn thanh tao.
Xã Cao Bồ hiện được xem là thủ phủ chè Shan Tuyết của tỉnh Tuyên Quang. Toàn xã có hơn 1.000 ha chè Shan Tuyết, trong đó 875 ha đang cho thu hoạch, sản lượng trung bình hơn 420 tấn mỗi năm, mang lại doanh thu trên 10 tỷ đồng. Đặc biệt, hơn 220 cây chè cổ thụ ở xã Cao Bồ đã được công nhận là Cây Di sản Việt Nam, minh chứng cho giá trị sinh học, văn hóa và kinh tế to lớn của giống chè bản địa này.
Chè Shan Tuyết sau khi được chế biến thành các loại Trà khác nhau như: Trà Phổ nhĩ, Trà Shan Tuyết, Trà Móng rồng…
Theo ông Nguyễn Văn Dương, Chủ tịch UBND xã Cao Bồ, đồng bào Dao chiếm tới 95% dân số toàn xã và đã gắn bó với cây chè hàng trăm năm qua. “Chè Shan Tuyết là niềm tự hào của người dân nơi đây. Không chỉ giúp bà con ổn định sinh kế, phát triển bền vững mà còn góp phần bảo vệ rừng đầu nguồn, nguồn sống của cả vùng,” ông chia sẻ.
Từ những búp chè cổ thụ ấy, Công ty Cổ phần Trà hữu cơ Cao Bồ và hai hợp tác xã địa phương đã không ngừng cải tiến kỹ thuật chế biến để đưa sản phẩm vươn xa. Nếu trước kia, người dân chỉ làm trà khô truyền thống, thì nay, từ nguyên liệu Shan Tuyết đã ra đời hàng loạt sản phẩm đặc sắc: trà Phổ Nhĩ sống, Phổ Nhĩ chín, trà quýt, Bạch trà mẫu đơn, Hồng trà, Trà vàng, Trà xanh và trà ống lam gác bếp. Mỗi loại trà là một cách kể chuyện khác nhau về hương vị, về văn hóa và về bản sắc vùng cao.
Điều đáng tự hào là chè Shan Tuyết Cao Bồ đã đạt chuẩn OCOP 3 sao và chứng nhận hữu cơ quốc tế (Organic), tấm vé thông hành để sản phẩm vươn ra thị trường thế giới. Hiện nay, trà Shan Tuyết Cao Bồ đã xuất khẩu sang Trung Quốc, Nhật Bản, Pháp, Mỹ, mang hình ảnh của núi rừng Tây Côn Lĩnh đến với bạn bè quốc tế. Mỗi chén trà được rót ra ở phương xa đều ẩn chứa hồn cốt Việt, giản dị mà tinh khiết, bền bỉ mà sâu sắc.
Không chỉ dừng lại ở giá trị kinh tế, người dân xã Cao Bồ đang hướng đến phát triển chè Shan Tuyết theo hướng du lịch trải nghiệm và văn hóa. Những tour “một ngày làm người hái chè”, “học sao trà Shan Tuyết” hay “thưởng trà giữa mây trắng” được triển khai thử nghiệm, thu hút du khách trong và ngoài nước. Du khách không chỉ được tận mắt chứng kiến những cây chè cổ thụ hàng trăm năm, mà còn được nghe người Dao kể chuyện về nghề, về rừng, về cách họ giữ gìn hương vị nguyên sơ của núi cao.
Các lễ hội văn hóa, hội thi chế biến trà truyền thống cũng được tổ chức định kỳ, trở thành dịp để cộng đồng gặp gỡ, chia sẻ và tôn vinh nghề trồng chè. Cây chè không chỉ mang lại thu nhập, mà còn là sợi dây gắn kết con người, nơi người Dao gửi gắm tình yêu quê hương, niềm tin và lòng tự hào dân tộc.
Để nâng tầm thương hiệu chè Shan Tuyết, chính quyền địa phương đang phối hợp cùng doanh nghiệp và hợp tác xã chuẩn hóa quy trình trồng, thu hái và chế biến, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật nhằm bảo đảm chất lượng đồng đều, an toàn sinh học. Đồng thời, các dự án quảng bá, xúc tiến thương mại, thiết kế bao bì mới, xây dựng câu chuyện thương hiệu đang được đẩy mạnh. Mục tiêu là biến “Chè Shan Tuyết Cao Bồ” không chỉ là sản phẩm nông nghiệp, mà là biểu tượng văn hóa – du lịch – kinh tế bền vững của Tuyên Quang.
Giữa thế giới hiện đại đầy biến động, những thân chè cổ thụ vẫn vững vàng bám rễ trên sườn núi, hứng sương đêm, đón nắng sớm, như cách người Dao giữ gìn truyền thống cha ông. Mỗi búp trà Shan Tuyết là một hạt tinh túy của đất trời, là kết quả của sự hòa hợp giữa thiên nhiên và bàn tay con người.
Hôm nay, khi cầm trên tay tách trà Shan Tuyết vàng óng, hương thơm thoang thoảng lan tỏa, ta không chỉ cảm nhận vị ngon của một đặc sản vùng cao, mà còn thấy được câu chuyện của con người, của niềm tin, của lao động và của khát vọng vươn lên từ núi rừng.
Chè Shan Tuyết Cao Bồ vì thế không chỉ là hương vị đặc trưng của vùng cao Tuyên Quang mà còn là di sản sống, là biểu tượng cho sức sống bền bỉ của người Việt giữa thiên nhiên hùng vĩ, nơi đất và người cùng hòa điệu trong một bản giao hưởng xanh đầy tự hào.