Theo Bộ trưởng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Lê Minh Hoan, ngành nông nghiệp đã xác định rõ tầm nhìn đến năm 2030 là phải tạo dựng môi trường, hệ sinh thái số nông nghiệp làm nền móng; kiến tạo thể chế, thúc đẩy chuyển đổi từ sản xuất nông nghiệp sang kinh tế nông nghiệp; phát triển theo hướng nông nghiệp thông minh, chính xác; tăng tỷ trọng trong nền kinh tế với các yếu tố then chốt gồm: chuyển đổi số nông nghiệp, số hóa sản xuất nông nghiệp, phân tích dữ liệu lớn, số hóa bán hàng sản phẩm nông nghiệp, số hóa quy trình xử lý công việc của các cơ quan quản lý nhà nước…
Đến nay, ngành nông nghiệp đang tập trung hoàn thiện hệ thống quy định pháp luật, văn bản, tài liệu hướng dẫn về chuyển đổi số trong các lĩnh vực quản lý ngành. Bộ đã chỉ đạo ngành nông nghiệp tập trung hoàn thành Đề án Chuyển đổi số ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn đến 2025, định hướng đến năm 2030 trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt trong quý III/2023; hỗ trợ thực hiện chuyển đổi số tại khu vực đồng bằng sông Cửu Long và gắn với việc triển khai Dự án hệ thống thông tin và cơ sở dữ liệu nền tảng ngành nông nghiệp; tiếp tục triển khai dự án “Xây dựng Chính phủ điện tử, hướng đến Chính phủ số của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn giai đoạn 2021-2025”, hoàn thiện hồ sơ phê duyệt dự án này.
Truy xuất nguồn gốc nông sản hàng hóa là một trong các nội dung quan trọng của chuyển đổi số trong lĩnh vực nông nghiệp. Đây cũng là cơ sở góp phần đẩy mạnh xã hội hóa hoạt động truy xuất nguồn gốc để phục vụ hội nhập quốc tế và nâng cao hiệu quả công tác quản lý nhà nước, bảo đảm chất lượng, tính an toàn của sản phẩm, hàng hóa.
Theo thống kê của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, tính đến nay, cả nước có 6.883 mã số vùng trồng xuất khẩu đã được cấp cho 25 sản phẩm (phân bố tại 54/63 tỉnh, thành phố) sang 11 thị trường; trong đó, Vùng Đồng bằng sông Cửu Long có số lượng mã số vùng trồng lớn nhất cả nước với 3.975 mã (chiếm 57%) đang hoạt động.
Riêng Đồng Tháp có 2.469 mã số vùng trồng được cấp, lớn nhất cả nước, trong khi đó Tiền Giang có 528 mã số vùng trồng và cơ sở đóng gói, Bến Tre có 84 mã số vùng trồng và cơ sở đóng gói.
Theo Đại diện Tổ chức Nông lương Liên Hiệp quốc (FAO), tính thiết yếu trong minh bạch sản phẩm sẽ là yếu tố để nông sản, thực phẩm được lựa chọn. Trên mỗi sản phẩm được bán ra có mã truy xuất được in trên bao bì, khi người tiêu dùng muốn biết đầy đủ thông tin về món hàng đã mua, truy ngược dòng từ thành phẩm cuối cùng về nơi sản xuất ban đầu, rà soát từng công đoạn trong chế biến và phân phối có thể dùng mã đó để kiểm tra.
Họ có thể gõ mã truy xuất trên trang web của sản phẩm để tìm thông tin; hoặc dùng điện thoại thông minh có cài đặt phần mềm truy xuất để quét lên mã truy xuất được in trên bao bì của sản phẩm. Không những vậy, xu hướng hiện nay là các nhà nhập khẩu trên thế giới luôn muốn biết nơi sản xuất và những nơi sản phẩm đi qua.
Điều này càng thể hiện rõ hơn với những thị trường nhập khẩu nông sản từ các quốc gia khác; trong đó có Việt Nam.
Việc truy xuất nguồn gốc hàng hóa thực tế đã có từ lâu đối với các doanh nghiệp, nhất là đối với các sản phẩm hàng hóa nông nghiệp. Rất nhiều doanh nghiệp đã áp dụng bài bản các tiêu chuẩn quốc gia, tiêu chuẩn quốc tế vào trong quy trình sản xuất sản phẩm. Việc truy xuất nguồn gốc giúp kiểm soát được chất lượng, độ an toàn và cũng là công cụ truy vết, thu hồi sản phẩm cho doanh nghiệp khi gặp vấn đề lỗi sản phẩm đã cung cấp ra thị trường.
Tuy nhiên, theo nhận xét của bà Đoàn Thanh Hằng, Giám đốc Liên hiệp hợp tác xã nông sản Thái Nguyên, hiện nay, các cơ sở sản xuất vẫn đang gặp rất nhiều khó khăn trong việc tìm nơi đăng ký để cấp mã nguồn cho sản phẩm hàng hóa của mình và việc truy vết nguồn gốc của người tiêu dùng đối với các sản phẩm hàng hóa cũng còn nhiều bất cập.
Do đó, các cơ quan quản lý cần nâng cao nhận thức của xã hội, các cơ quan, tổ chức và doanh nghiệp về truy xuất nguồn gốc thông qua việc đẩy mạnh các hoạt động tuyên truyền, phổ biến, đào tạo cho các bên liên quan; bảo đảm công khai, minh bạch các thông tin truy xuất nguồn gốc của sản phẩm, hàng hóa trên thị trường, cung cấp thông tin, kiến thức thiết yếu về truy xuất nguồn gốc.
Đối với người tiêu dùng khi mua và sử dụng sản phẩm đều có nhu cầu tìm hiểu những thông tin nguồn gốc sản phẩm đó như thế nào để phòng tránh trường hợp sử dụng phải hàng giả, hàng nhái hoặc hàng kém chất lượng. Trước đây, với các tem, nhãn dán trên sản phẩm, thông tin rất giới hạn, không đầy đủ hoặc không chính xác. Ngày nay, các giải pháp công nghệ để truy xuất nguồn gốc đã được phát triển rộng rãi để người tiêu dùng dễ dàng truy xuất nguồn gốc sản phẩm thông qua điện thoại thông minh. Nhờ đó, sản phẩm trên thị trường được kiểm soát chất lượng minh bạch, người tiêu dùng có niềm tin với sản phẩm của doanh nghiệp.
Khó khăn hiện nay là không phải doanh nghiệp nào cũng ứng dụng giải pháp công nghệ về truy xuất nguồn gốc, bảo đảm minh bạch thông tin cho người tiêu dùng. Thêm vào đó, thực tế đang có rất nhiều giải pháp về truy xuất nguồn gốc nhưng những giải pháp đó đã đúng bản chất về truy xuất nguồn gốc hay chưa, có thực sự cung cấp thông tin chính xác của doanh nghiệp và sản phẩm tới người tiêu dùng hay không thì đến nay vẫn chưa có câu trả lời. Đây là những vấn đề nan giải trong quản lý nhà nước về truy xuất nguồn gốc sản phẩm nhất là trong bối cảnh hiện nay, các thị trường nhập khẩu nông sản lớn như Mỹ, EU, Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản… đòi hỏi hàng hóa nhập khẩu phải có chứng chỉ, xuất xứ bảo đảm, minh bạch, nhằm bảo vệ lợi ích của người tiêu dùng và sự cạnh tranh bình đẳng của các doanh nghiệp.
Trước những quy định khắt khe từ phía các nhà nhập khẩu về kiểm dịch, truy xuất nguồn gốc, tem nhãn hàng hóa, chứng nhận chất lượng, tồn dư thuốc bảo vệ thực vật... cơ quan quản lý nhà nước về lĩnh vực này đã có những giải pháp phù hợp nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho hàng hóa của các doanh nghiệp xuất khẩu.
Đồng thời, các doanh nghiệp và người tiêu dùng mong muốn các cơ quan quản lý phải có cách thức chuẩn hóa cả về mặt kỹ thuật và tiêu chuẩn đối với giải pháp truy xuất nguồn gốc hàng hóa để thống nhất triển khai tại Việt Nam; quy định rõ trách nhiệm của tổ chức, cá nhân kinh doanh trong việc bảo đảm an toàn hàng hóa, giúp người dân chia sẻ dữ liệu thông tin công khai, minh bạch, dễ dàng truy xuất nguồn gốc sản phẩm hàng hóa nhằm bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của người tiêu dùng…