Văn hóa thưởng trà của người Việt
Với vị trí tự nhiên thuộc khu vực nhiệt đới gió mùa, cây chè đã có mặt lâu đời trên đất nước ta và được canh tác trên những vùng thổ nhưỡng phù hợp. Theo tài liệu khảo cứu của Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam, người ta đã tìm thấy dấu tích của lá chè và cây chè hóa thạch ở đất tổ Hùng Vương (Phú Thọ). Xa hơn nữa, họ còn nghi ngờ cây chè có từ thời kỳ đồ đá Sơn Vi (văn hóa Hòa Bình). Cho đến ngày nay, ờ vùng Suối Giàng (Yên Bái), có một vùng chè hoang khoảng 40 nghìn cây chè dại, trong đó có một cây cổ thụ ba người ôm không xuể. Như vậy, có thể nói, Việt Nam là một trong những chiếc nôi cổ nhất của cây chè thế giới.
Cùng với sự có mặt của cây chè, người Việt xưa, dù sống dưới chân núi cao, ở vùng đồng bằng hay bên bờ biển, dù là người sang hay kẻ hèn, cũng đã từng lưu giữ một tập tục quý: tục uống trà. Khi có khách đến nhà thì dù có bận mấy, chủ nhà cũng dừng việc, nghỉ tay, ăn mặc chỉnh tề và súc ấm pha trà mời khách. Người bình dân ở nơi thôn dã uống kiểu bình dân; quan lại, quý tộc thì có tiệc trà thưởng lãm sang trọng. Nhưng vượt lên tất cả chính là sự trân trọng của chủ và khách. Ẩn sau hương vị của tách trà thơm là bao điều thổ lộ, từ những việc hệ trọng quốc gia đại sự đến chuyện chuyện nhà, chuyện cửa, chuyện hàng xóm, láng giềng bình dị.
Tục uống trà của người Việt Nam đã có từ lâu đời, nhưng thật khó xác định là bắt đầu từ bao giờ. Từ thế kỷ 18, trong Vũ trung tùy bút, Phạm Đình Hổ đã viết về tục uống trà từ trước đó hàng nghìn năm. Các triều đại phong kiến nước ta từ xưa đã dùng trà. Trà đã đi vào thi ca, văn hóa cổ. Tục uống trà của người Việt Nam cũng rất phong phú. Từ cách uống trà cầu kỳ, cổ xưa, thường một bộ đồ trà có bốn cái chén quân, một chiếc chén tống. Nước pha trà lựa thứ nước mưa trong hoặc sương đọng trên lá sen mặt hồ, người ta đi thuyền hứng từng giọt vào buổi tinh mơ. Phương ngôn xưa còn lưu truyền những lời đúc kết về cách thưởng trà: “trà dư, tửu hậu”, “tửu sáng, trà trưa”, “rượu ngâm nga, trà liền tay” hay “chè ngon xin chớ ướp hoa”…
Ngoài trà ướp sen, ngâu, cúc, lan, lài, sói, người bình dân hay uống trà xanh. Người nông thôn trồng mấy gốc chè tươi bởi có thú ra vườn tuốt mấy nắm lá xanh, hãm một nồi to, ăn khoai luộc, hút thuốc lào. Sang hơn thì có trà “mật vị” (trà xanh pha đặc như mật con vịt). Trà hạt là nụ trà phơi khô, ủ vào bình tích có hoa cúc chi hoặc mấy lát gừng uống cho ấm giọng. Xoàng hơn là trà bồm, lá già, thường tận dụng khi đốn cây trà, để chờ lứa trà búp mới mùa xuân. Trà bánh thì còn xoàng hơn nữa. Người Nghệ An, Hà Tĩnh có tục mời nhau uống chè tươi. Đi làm đồng về, trời nóng nực, có bát chè xanh đặc pha đường hay mật mía thì giải nhiệt thật tốt. Trà mạn xưa cũng là thứ chè lá già, sau ướp sen thành trà mạn sen được coi là thứ quý.
Các nhà nghiên cứu khoa học chỉ ra rằng, trong lá chè có chứa 20% tananh có tác dụng sát khuẩn mạnh, một lượng lớn caffeine, hợp chất thơm, tinh dầu cùng một số loại vitamin. Hai công dụng lớn nhất của lá chè là làm tăng tuần hoàn máu, tăng cường chức năng hoạt động của thận và giúp tế bào AND tái tạo, giảm bớt các đột biến gene có thể dẫn đến ung thư, chữa bệnh sâu răng, kích thích hệ thần kinh trung ương, giúp cho tinh thần sảng khoái. Có lẽ từ những công dụng của trà mà dân gian xưa từng lưu truyền vô vàn cách chữa bệnh của nó. Ví như: “Bán dạ tam bôi tửu/ Bình minh sổ trản trà/ Mỗi nhật cứ như thử/ Lương y bất đáo gia” (Canh khuya ba chén rượu/ Mỗi sớm một tuần trà/ Mỗi ngày được như thế/ Thầy thuốc xa nhà ta).
Người Việt Nam vốn trọng tình, trọng nghĩa, chỉ mượn tuần rượu, tuần trà để hòa kết, giao tình. Chính vì vậy, không nặng tính nghi thức trong thưởng lãm trà. Đạo trà Việt chỉ thận trọng ở cách dâng mời đầy ngụ ý. Dù vui hay buồn, dù nắng hay mưa, khách cũng không thể từ chối một ly trà nóng khi thân chủ dâng mời bằng cả hai tay. Dâng trà, biếu trà là biểu thị sự lễ độ. Uống trà lại là một ứng xử văn hóa khác. Uống từng ngụm nhỏ để cảm nhận hết các dư vị của trà. Uống để đáp lại lòng mến khách của người dâng trà, để bắt đầu những lời tâm sự, để bàn chuyện thế thái nhân tình, để cảm thấy hương vị thiên nhiên gắn quyện trong trà tỏa hơi ấm qua bàn tay dù trời lạnh giá. Dâng trà và dùng trà là biểu hiện một phong độ văn hóa, sự thanh cao, tri kỷ, kết giao, lòng mong muốn hòa hợp, xóa đi những đố kỵ, thù hận. Đạo trà Việt đồng nghĩa với sự sảng khoái, tịnh tâm, mưu điều thiện, tránh điều ác, là triết lý về sự tế nhị, thanh cao, suy ngẫm trong tỉnh táo…
Văn hóa trà đã gắn kết với đời sống và tâm linh của người Việt từ bao đời nay. Từ thưở xa xưa, trên bàn thờ tổ tiên của người Việt, hậu duệ ngưỡng vọng tiền nhân bằng tuần rượu, tuần trà. Khi nhấp từng ngụm trà thơm lừng thì con người càng gần gũi nhau hơn. Đó là ngụ ý cao xa, là ứng xử giao hòa, là tình làng nghĩa xóm, là tinh thần hướng thượng, là đạo nghĩa vẹn tròn.
Trà trong đời sống của người Việt
Trà - Thức uống tốt cho sức khỏe con người hiện nay, các nhà khoa học đã chứng minh được chè xanh là kho tàng của các hoạt chất sinh học. Điển hình như các polyphenol, các alkaloid, các aminoaxít, vitamin, flavonid, flour, tanin, saponin... Tất cả có 12 nhóm hoạt chất trong cây chè.
Trà có khả năng kích thích lao động và đem lại niềm vui, trà có lợi ích cho hô hấp và tim mạch, trà có khả năng ức chế, ngằn ngừa sự phát triển tế bào ung thư vì trà có chứa một loại dược tính gọi là ECGC (Epi gallocatechine gallate), loại chất có khả năng chống ung thư (từ ngăn cản tế bào ung thư đến chặng đứng sự di căn của các khối u). ECGC có sức sống chất ôxy hóa mạnh gấp 100 lần so với vitamin C và gấp 25 lần so với vitamin E.
Mỗi nước có cách uống trà của riêng mình, trên thế giới, có rất nhiều nước trồng chè và tương ứng với nó cũng có bấy nhiều cách thức uống. Cách thức thưởng trà được nâng lên thành nghệ thuật có ở Trung Hoa và Nhật Bản - nơi đã từng coi trà như một tôn giáo (như cách gọi Trà Kinh, Trà đạo).
Còn ở Việt Nam có Phong trà (phong cách uống trà), thể hiện phong phú những khía cạnh văn hoá ứng xử của người dân Việt. Và cách ẩm trà của người Việt cũng rất riêng, rất độc đáo: các bậc tiền nhân xưa cho rằng, ẩm trà là một nghệ thuật, mà nghệ thuật thì phi công thức.
Vì lẽ ấy các bậc tiền nhân thường có cách uống trà như sau: trước khi uống thường đưa qua mũi để tận hưởng hương vị trà, sau mới hạ dần xuống miệng, môi nhấp ngụm nhỏ, thấy chát đắng, chân răng cảm nhận như chặt lại, miệng chép liền mấy cái đã thấy dịch vị trong miệng tiết ra có vị ngọt dịu, lòng sảng khoái luận về trà.
Người Việt dùng trà nguyên thủy (trà mộc chưa được ướp với nhiều nguyên liệu khác nhau thành trà sen, trà sói, trà bạch ngọc (ướp hương từ năm loại hoa màu trắng: nhài, cúc trắng, bông bạch, mộc và ngọc lan); trà mật ong, trà long nhãn, trà nhân sâm... Mỗi loại trà làm nên một hương vị khác nhau, trong đó trà sen là thứ trà quý nhất, ngày xưa chỉ dành cho bậc vua chúa thưởng thức.
Người Việt Nam thưởng trà theo cách độc ẩm (một mình), đối ẩm (hai người), hay quần ẩm (nhiều người) thể hiện văn hóa thuần chất của mình, đồng thời vẫn còn có những tiêu chuẩn về chất lượng cũng như vị thế của việc thưởng trà.
Nước dùng pha trà thường phải là thứ nước mưa được hứng giữa trời, hay từ các suối nguồn tự nhiên, cầu kỳ hơn nữa là thứ sương đọng trên lá sen vào buổi sớm mai. Cách đun nước cũng phải phải đảm bảo giữ được độ thanh tĩnh và không làm ảnh hưởng đến hương vị của trà (người Việt gọi là “nhất thủy,” “nhì trà”) tức là việc dùng trà mộc hay trà hương.
Những người có thú đam mê uống trà ngày nay đã đề ra 5 chuẩn mực về cách chọn trà ngon: “sắc-thanh-khi-vị-thần,” nhưng với những người sành trà, thì trà mộc móc câu (cánh trà sao quăn lại giống hình móc câu) là loại trà quý nhất.
“Tam bôi, tứ bình” (bình và ấm trà) đó chính là bộ đồ pha và uống trà có ấm và 4 chén quân, một chén tống để chuyên trà. Chén quân thường là loại chén hạt mít (mắt trâu), bình cũng có bình chuyên, bình tống, tùy theo lối uống “độc ẩm, song ẩm, tứ ẩm hay quần ẩm” để chọn loại bình tương ứng.
Với bạn trà “ngũ quần anh,” tức tìm “bạn trà” đôi khi khó hơn tìm “bạn rượu.” Vì bạn trà là người bạn tri âm, cùng nhau thưởng trà, ngâm thơ, bộc bạch nỗi niềm hay bàn chuyện gia đình, xã hội nhân tình thế thái để cảm nhận trong trà có cả trời đất, cỏ cây.
Người thưởng trà sành điệu là người chọn thời điểm uống trà vào lúc mờ sáng (khoảng 4-5 giờ sáng) khi thời khắc âm dương giao hòa, đêm qua - ngày tới), uống trà thời khắc giao hòa này sẽ có lợi cho sức khỏe và tâm hồn, hướng người thưởng trà tới những điều tốt đẹp.
Về không gian thưởng trà của người Việt cũng đòi hỏi có một không gian rộng để tận hưởng được hết sự tinh túy của trà. Không gian thưởng trà thường mang hơi hướng của văn hóa thiền - là không gian thanh tịnh, thuần khiết, tao nhã, êm dịu. Lý tưởng nhất là những nơi có khung cảnh thiên nhiên đẹp, yên tĩnh, bên trong có tranh ảnh, thư pháp, góc đọc sách báo hoặc bàn cờ. Vậy nên văn hóa trà Việt đã được người đời tổng kết vừa có nét cầu kỳ, vừa mang tính dân dã.
PHI LONG