Theo Hiệp hội Thị trường trái phiếu Việt Nam (VBMA), quy mô toàn thị trường trái phiếu doanh nghiệp tính đến nay mới đạt khoảng 1,15 triệu tỷ đồng, chiếm gần 15% GDP cả nước và thấp hơn nhiều so với các quốc gia thuộc nhóm phát triển trong ASEAN như Malaysia là 56% GDP, Singapore là 38% GDP, Thái Lan là 25% GDP.
Vấn đề huy động vốn và phát hành trái phiếu doanh nghiệp ra công chúng cũng gặp nhiều khó khăn với tỷ lệ còn rất nhỏ, giá trị phát hành trái phiếu doanh nghiệp cũng liên tục sụt giảm qua các năm. Ngoài những nguyên nhân từ bối cảnh khó khăn chung của thị trường thì thách thức còn xuất phát từ một số rào cản khác như thời gian phê duyệt hồ sơ phát hành thường kéo dài từ 4-6 tháng, nhiều vướng mắc liên quan tới hồ sơ niêm yết trái phiếu phải có Nghị quyết của Đại hội đồng cổ đông doanh nghiệp trong khi Đại hội đồng cổ đông chỉ tiến hành họp 1 năm/lần.
Những tháng cuối năm 2023, hoạt động phát hành trái phiếu trên thị trường sơ cấp diễn ra sôi động, chủ yếu ở nhóm ngân hàng. Lũy kế từ đầu năm, nhóm ngân hàng phát hành 110.000 tỷ đồng, nhóm bất động sản phát hành khoảng 74.000 tỷ đồng TPDN. Đặc biệt, thị trường trái phiếu thứ cấp sôi động hơn rất nhiều sau khi sàn giao dịch trái phiếu riêng lẻ ra đời, giá trị giao dịch trung bình theo tuần tăng gấp 3 - 4 lần.
Tuy nhiên, áp lực đáo hạn trái phiếu năm 2024 rất lớn (khoảng 330.000 tỷ đồng) cộng thêm số doanh nghiệp vi phạm nghĩa vụ trả gốc, lãi trái phiếu không ngừng tăng lên đặt thị trường này trước nhiều rủi ro. Chuyên gia trong lĩnh vực tài chính cho rằng, 3 nhóm trái phiếu doanh nghiệp có tỷ lệ nợ xấu cao nhất hiện nay là bất động sản, vật liệu xây dựng và năng lượng tái tạo. Hiện đang có 147 tổ chức phát hành vi phạm nghĩa vụ trả lãi, gốc. Tỷ lệ trả chậm chung toàn thị tường trái phiếu phi ngân hàng ở mức ở mức 20%.
Hiện nay, theo thống kê, tổng giá trị trái phiếu doanh nghiệp riêng lẻ đáo hạn trong quý cuối năm nay ước tính trên 104 nghìn tỷ đồng; trong đó trái phiếu đến hạn của các doanh nghiệp bất động sản hơn 37 nghìn tỷ đồng, của các tổ chức tín dụng là 24 nghìn tỷ đồng, các doanh nghiệp sản xuất là 1,3 nghìn tỷ đồng và các doanh nghiệp thương mại, dịch vụ cùng các lĩnh vực khác hơn 42 nghìn tỷ đồng. Cùng với đó, tổng giá trị trái phiếu doanh nghiệp riêng lẻ đáo hạn trong năm 2024 dự tính hơn 288 nghìn tỷ đồng, năm 2025 là 194,2 nghìn tỷ đồng.
Những bất cập khiến thị trường trái phiếu doanh nghiệp sụt giảm có một phần nguyên nhân do tính công khai, minh bạch trên thị trường còn hạn chế, cơ chế giám sát, thực thi của Việt Nam được xây dựng trên mô hình quản lý chia sẻ trách nhiệm giữa cơ quan bảo vệ người tiêu dùng và cơ quan quản lý thị trường tài chính nên dẫn tới tình trạng: thiếu cơ quan chuyên trách bảo vệ người tiêu dùng tài chính, thiếu sự phân định rạch ròi về chức năng, nhiệm vụ và thiếu cơ chế liên thông, thiếu thẩm quyền để giải quyết khiếu nại, tranh chấp đối với người tiêu dùng tài chính. Với sự biến động của thị trường cũng như qua một số sự kiện liên quan tới trái phiếu doanh nghiệp, thao túng giá cổ phiếu hay các vấn đề liên quan đến quyền lợi người tiêu dùng tài chính đã làm ảnh hưởng rất lớn tới niềm tin của nhà đầu tư.
Để giải quyết dòng tiền chi trả cho trái phiếu đáo hạn, ngoài việc kỳ vọng từ dòng tiền tạo ra trong sản xuất kinh doanh thì các doanh nghiệp sẽ cần tìm thêm nguồn vốn mới, đến từ việc phát hành trái phiếu doanh nghiệp mới hoặc từ nguồn vay ngân hàng, phát hành cổ phiếu....Tuy nhiên, khả năng gọi vốn của các doan nghiệp trong giai đoạn này đang rất khó khăn vì sự suy giảm niềm tin nơi các nhà đầu tư, sự e ngại từ phía các tổ chức, cá nhân góp vốn
Trước thực trạng và tình hình khó khăn của thị trường trái phiếu doanh nghiệp hiện nay và mục tiêu hướng tới khôi phục thị trường này phát triển lành mạnh và bền vững, góp phần khơi thông kênh huy động vốn trung và dài hạn cho doanh nghiệp, nhiều chuyên gia kinh tế bình luận, cần có giải pháp không chỉ tập trung vào cải thiện nguồn cung của thị trường như chuẩn hóa đối tượng phát hành, nâng cấp nền tảng trung gian cho thị trường..., mà còn phải có giải pháp "kích cầu" cho thị trường thông qua việc phát triển và đa dạng hóa cơ sở nhà đầu tư cho thị trường trái phiếu.
Nhà nước nên can thiệp sớm để cải thiện tính minh bạch thông tin theo hướng sửa đổi khung chính sách tùy theo đối tượng nhà đầu tư, đơn giản hóa các thủ tục phê duyệt phát hành và trái phiếu doanh nghiệp được chào bán cần thực hiện xếp hạng tín nhiệm độc lập như thông lệ đang tiến hành ở các quốc gia trong khu vực và trên thế giới.
Bên cạnh đó, cần tháo gỡ những rào cản pháp lý nhằm phát triển cơ sở nhà đầu tư như các tổ chức tín dụng, các công ty bảo hiểm, các quỹ đầu tư trái phiếu doanh nghiệp... Đồng thời, cần có chính sách khuyến khích đầu tư vào trái phiếu doanh nghiệp như việc xem xét miễn thuế cổ tức, thuế bán chứng chỉ quỹ, thay vào đó xem xét đánh thuế trên trái tức nhận được.
Ngân hàng Nhà nước cũng có thể xem xét cơ chế tái cấp vốn cho các quỹ đầu tư trái phiếu doanh nghiệp nếu đạt một số tiêu chí nhất định.
Ngoài ra, cần tiếp tục đẩy mạnh kênh trái phiếu chào bán rộng rãi ra công chúng, tiếp tục hoàn thiện cơ sở hạ tầng cứng và mềm cho thị trường, tạo cơ chế pháp lý cho trái phiếu xanh nhằm tận dụng nguồn vốn trong nước và quốc tế, thành lập thêm các quỹ bảo lãnh trái triếu doanh nghiệp.
Tiến Hoàng