Nhà sư Tuệ Tĩnh - Vị Thánh của trà Việt

Trong mỗi ngôi nhà ở làng quê, hay dưới mái chùa ngay giữa thủ đô Hà Nội, cố đô Huế hay TP.Hồ Chí Minh và khắp nơi trên cả nước, hàng ngày chúng ta vẫn được dùng một thức uống độc đáo - chè tươi, đó chính là nhờ việc quốc dân hóa cây chè của vị Thánh trà Việt - Thiền sư Tuệ Tĩnh (1330-1400).

Tượng Thiền sư Tuệ Tĩnh
Tượng Thiền sư Tuệ Tĩnh

Được biết, Thiền sư Tuệ Tĩnh có tên là Nguyễn Bá Tĩnh, khi đi tu ông mới lấy pháp hiệu là Tuệ Tĩnh hay còn gọi là Huệ Tĩnh. Ông xuất thân từ một gia đình bần nông, cha là Nguyễn Công Vỹ, mẹ là Hoàng Thị Ngọc ở Nghĩa Lư, huyện Dạ Cẩm, Hồng Châu nay là thôn Phú Nghĩa, xã Cẩm Vũ, huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương.

Ông sinh trưởng dưới triều Trần Dụ Tông (thể kỷ XIV), lúc lên 6 tuổi cha mẹ đều mất. Ông được nhà sư chùa Hải Triều ở Yên Trang gần đấy đưa về nuôi cho ăn học. Đến 10 tuổi, Bá Tĩnh lại được sư cụ chùa Giao Thủy ở Sơn Nam (Nam Định) đưa về cho học ở nhà sư chùa Dũng Nhuệ trong huyện. Ở đấy ông được gọi là Tiểu Huệ nên có biệt danh là Huệ Tĩnh. Ông được học văn, học thuốc để giúp việc chữa bệnh ở chùa.

Đến năm 22 tuổi Ông đi thi Hương trúng bảng, nhưng vẫn ở chùa đi tu lấy pháp hiệu Tuệ Tĩnh. Năm 45 tuổi ông đi thi Đình, đậu Hoàng giáp. Năm 55 tuổi ông bị bắt đi sứ sang Trung Quốc. Ông được nhà Minh giữ lại làm việc ở Viện Thái y.

Cả cuộc đời của ông dành cho việc tìm thuốc Nam, chữa bệnh bằng thuốc Nam, theo phương châm: “Thuốc Nam chữa người Nam”.

Việt Nam là quê hương của cây chè, cây chè mọc tự nhiên từ bao đời thành cổ thụ là một thảo dược, Thiền sư Tuệ Tĩnh đã khẳng định trong các bộ sách của mình về phẩm chất trà của phương Nam ẩn chứa nhiều dược tính quý giá và uống nước chè tươi không chỉ là thức uống thông thường mà còn trị được bệnh.

Trong bộ sách Nam dược thần hiệu, ông đã ghi lại Bản thảo dược tính 499 vị thuốc Nam, trong đó vị 188 là Minh trà: “188.Minh trà: Trà ngon, vị ngọt, đắng tính hơi hàn, nhuận tạng, trừ tiệt khu phong, sáng mắt, nhẹ đầu, hạ đờm, trị chướng lỵ, tiêu thức ăn”.

Sách Trục giải chỉ nam dược tính phú ghi: “Trà, vốn thanh tâm giải khát, uống một bát thì muôn điều lo nghĩ tiêu tan”.

Ngoài việc dùng lá chè tươi làm thức uống vừa giải khát vừa tiêu bệnh, Thiền sư Tuệ Tĩnh còn chế biến trà khô và dùng nước trà làm phương thuốc Nam trị bệnh. Trong bộ sách Nam dược thần hiệu còn ghi: Trong bệnh đau lưng, có kinh trị đau lưng rất hay: “Trà ngon nấu nước đậm 5 chung, hòa với giấm 3 chung uống ngay thì lành”. Kinh trị bị sương lạnh lở loét: Hoắc dương, chè đầu xuân. Bằng nhau đốt ra tro hòa với dầu phết lên trên lá mà đặt vào, rất hay”.

Vùng chè xanh được được trồng phổ biến trên cả nước Việt Nam - Ảnh: Sơn Thủy
Vùng chè xanh được được trồng phổ biến trên cả nước Việt Nam - Ảnh: Sơn Thủy

Trà ở Việt Nam không chỉ dừng lại là thứ nước uống thông thường mà còn dùng làm thuốc. Chính ông đã khẳng định phẩm chất trà của phương Nam ẩn chứa nhiều dược tính quý giá.

Lấy cái giản đơn mà ức chế cái phức tạp, đó là sự tài tình của vị đại danh y. Cây chè rất đỗi giản dị mà thật quý, ai ai cũng dùng được và nơi đâu cũng có. Từ đó mỗi góc vườn sẽ trở thành vườn thuốc quý, không chỉ dừng lại ở cây chè mà còn nhiều thảo mộc khác cũng được Thiền sư Tuệ Tĩnh tìm và phổ biến rộng cho toàn dân.

Cả cuộc đời gắn bó với Nam dược và đặc biệt với cây chè, những trang sách của Thiền sư Tuệ Tĩnh trong Nam dương Quốc ngữ phú còn ghi lại danh trà Việt: “Chè lưỡi sẻ là Tước Thiệt hảo trà”. Một danh trà mà người yêu trà đều mơ ước được một lần nếm thử.

Tuệ Tĩnh không những đã xây dựng được nền móng y học cổ truyền của Việt Nam mà ông còn đề cao giá trị của thuốc Nam. Phát triển cây trồng chè, dùng trà để giải khát, dùng trà để chữa bệnh là một trong những Nam dược được ông đề cao và phát triển trong mỗi gia đình, mỗi vườn chùa.

Truyền thống thuốc Nam của ông đã được đời sau kế thừa và phát huy rạng rỡ. Cây chè trồng quanh vườn nhà, vườn chùa phát triển thành xóm thành làng chè và thú uống chè độc đáo ủa người Việt tồn tại tới nay là do công chính của ông Thánh trà Việt - Tuệ Tĩnh xây dựng.

Nhà sư Tuệ Tĩnh từng nói: “Trà làm cho tâm hồn sảng khoái, thanh nhiệt cơ thể. Uống một bát vạn nỗi ưu phiền tan biến”. Bởi vậy trà ở Việt Nam không là đạo mà trà đã là một phần của cuộc sống.

Thật tự hào thay Thiền sư Tuệ Tĩnh - Thánh trà Việt Nam, người đã quốc dân hóa trà và giúp phần giữ gìn phong tục uống trà tươi độc đáo tới tận ngày nay của người Việt chúng ta./.

Sơn Thủy (t/h)