Ở xứ Nghệ, tập tục uống chè xanh trong gia đình đã tồn tại từ bao đời, tuy nhiên, không giống các vùng miền khác, tại đây, mỗi khi nấu nồi chè tươi, gia chủ thường không uống giải khát một mình mà rủ hàng xóm sang uống cùng.
Theo ông Hồ Viết An - Tổng Giám đốc Công ty Chè Nghệ An: Nói về văn hóa chè trong đời sống bản địa, ngay từ bé tôi đã cảm nhận rõ chuyện uống chè trong gia đình là điều không thể thiếu mỗi ngày. Ngay cả lúc đất nước khó khăn nhất, bát nước chè như sự động viên, thậm chí giúp giải quyết cả phần khó khăn vì nông dân nghèo quê tôi đi cày cấy về không có cơm ăn, chỉ ăn một củ khoai luộc, xong uống bát nước chè đặc rồi lên võng đu đưa, cảm giác rất tuyệt vời.
Chè là cầu nối giúp láng giềng gần nhau hơn nhờ tính cộng đồng cao thông qua hành động “gọi chè”. Cái cớ “gọi chè” được ông An chia sẻ thêm: “Nhà người dân quê cách nhau dậu thưa, không kín cổng cao tường như thành thị. Mỗi khi ra đồng về, nông dân nắm theo mớ chè tươi mới hái, om nồi chè, nhà nào xong trước bước ra hiên, ới hàng xóm sang uống cùng, rôm rả chuyện đồng áng, vụ mùa, rất chân tình, gần gũi. Nhà nào khá hơn pha thêm chút mật mía vào bát chè xanh. Chúng tôi lớn lên được các cụ truyền lại, uống nước chè với mật mía là loại thực phẩm đặc biệt, giúp bổ sung năng lượng. Nông dân chúng tôi da anh nào cũng đỏ au, khuôn mặt thể hiện sức khoẻ rạng ngời sau những bát nước chè ấy”.
Cây trà ở đây không được trồng thành những quả đồi như: Lâm Đồng, Thái Nguyên… mà là từng bụi chè rải rác. Có nhà trồng trà tạo thành hàng rào quanh nhà, có nhà chỉ lác đác vài bụi trong vườn. Những cây trà này hoàn toàn mọc tự nhiên, không chăm sóc, không tỉa tót. Mục đích của nó tồn tại là để mang đến cho gia đình món nước giải khát trong những trưa hè nóng bức.
Cách nấu chè xanh đúng “chuẩn” Nghệ
Đúng như cái tên của nó, nguyên liệu chính cho chè xanh là những lá chè còn tươi, mới được cắt từ cây trà xuống. Thay vì chỉ lựa chọn những lá trà non, người ta cắt luôn cả cành, non già hoa lá đủ cả. Vì nó là thức uống dân dã, nên lúc nào tiện người ta sẽ hái lúc đó chứ không hái vào sáng sớm như những loại trà khác. Sau khi cắt những cành trà từ trên cây, người ta sẽ ngắt từng lá đem đi rửa.
Bước tiếp theo là đun nước. Người miền quê thường dùng nước giếng trong sinh hoạt và nấu nướng. Còn người thành phố, người ta xài nước máy. Thường nước máy sẽ làm mất đi một phần mùi vị chè xanh vì có hàm lượng flo cao.
Khi nước sôi, giảm lửa, bỏ toàn bộ lá trà vào và tăng lửa lên cho sôi trào trở lại thì cho vào nồi một gáo nước nguội, điều này giúp lá chè chín và khi uống không bị mùi tanh giống như pha trong ấm tích. Trước khi bỏ vào nồi, người ta sẽ vò sơ qua cho những tinh chất trong lá trà tiết ra khi nấu và màu nước chè sẽ đẹp hơn. Do người dân xứ Nghệ có thói quen uống đậm đặc nên sẽ đun trực tiếp trên bếp. Một số nơi khác người ta sẽ om bằng nước sôi trong ấm tích. Nhưng om chè bằng ấm tích sẽ không bao giờ ngon bằng đun trực tiếp trên bếp, vì nhiệt độ của nước không đủ để làm chín lá trà, bao nhiêu tinh túy trong lá trà không tiết ra được.
Ở xứ Nghệ, người ta sẽ sản xuất một cái ấm chuyên dụng để nấu chè xanh, trên nắp ấm có một cái lỗ để thoát hơi nước, một số nơi người ta sử dụng lá chuối bịt kín nồi và đục một lỗ cho hơi thoát ra, giúp cho lá chè sau khi nấu vẫn giữ được màu xanh. Chè tươi khi đem om nồi Trù Sơn (làng làm nồi đất Trù Sơn thuộc huyện Đô Lương), cảm giác như độ ngọt thơm tăng lên bội phần.
Cách thưởng thức chè xanh
Vì đây là đồ uống nấu trực tiếp từ lá trà tươi, nên tinh chất trong lá trà vẫn còn nguyên vẹn, khi uống sẽ có vị chát, nếu không quen thì rất khó uống. Chè uống ngon nhất là sau khi nấu 10 phút, có vị thơm, chát và hậu ngọt. Còn đối với chè xanh được om trong ấm tích, nên uống liền sau khi pha vì nếu để lâu sẽ có vị tanh do lá chưa chín.
Người ta thường uống chè xanh ăn kèm với kẹo cu đơ, mục đích làm giảm vị chát của chè xuống hoặc hòa chung với đường và chanh để tăng độ ngon của chè xanh.
Ngoài việc trở thành nước giải khát hàng ngày, chè xanh còn là thức uống chủ yếu trong những ngày đám tiệc, lễ giỗ. Thay vì mua những chai nước lọc đóng chai, người ta nấu từng nồi chè xanh (40-50 lít) để phục vụ tất cả mọi người và sẽ có một người được cắt cử đảm nhiệm công việc này riêng.
Chè xanh đã trở thành một thức uống quen thuộc của tất cả mọi người từ người già cho đến trẻ nhỏ. Người dân Nghệ An đi đâu cũng mang thức uống này theo mình như một nét văn hóa không bao giờ bị mai một.
Nhân Lê