Tỉnh Nghệ An, một vùng đất nổi tiếng với khí hậu và thổ nhưỡng lý tưởng, là nơi sản xuất chè chất lượng cao như chè xanh, chè đen và chè ô long. Chè nơi đây đặc biệt với hương vị đậm đà và màu sắc tươi sáng, chủ yếu được chế biến theo phương pháp truyền thống. Sản phẩm chè không chỉ được tiêu thụ trong nước mà còn xuất khẩu.
Tuy nhiên, việc thâm canh chưa đúng kỹ thuật và giá chè không ổn định đã ảnh hưởng đến năng suất và chất lượng chè, dẫn đến tình trạng đất bị chai cứng. Để khắc phục, từ năm 2022, gia đình chị Tâm ở xóm Tân Hợp, xã Bình Sơn, huyện Anh Sơn đã chuyển sang canh tác hữu cơ với sự hỗ trợ từ Dự án Khuyến nông Quốc gia. Với 1,5 ha chè, gia đình chị đã áp dụng mô hình sản xuất hữu cơ, nhận được hỗ trợ về kỹ thuật, vật tư và phân bón, cùng với kết nối tiêu thụ sản phẩm. Sau gần ba năm, mô hình này đã giúp phát triển một vùng sản xuất chè sạch, an toàn và chất lượng.
Dự án “Xây dựng mô hình mẫu sản xuất chè hữu cơ, liên kết theo chuỗi giá trị tại Nghệ An giai đoạn 2022-2024” cũng được triển khai trên diện tích 10 ha với sự tham gia của 10 hộ dân tại xã Bình Sơn. Dự án đã đạt được nhiều kết quả tích cực, từ việc tuân thủ quy trình sản xuất chè hữu cơ đến kiểm soát sâu bệnh hại bằng thuốc sinh học. Thạc sĩ Nguyễn Văn Hữu, cán bộ khuyến nông tỉnh Nghệ An, cho biết nếu thực hiện đúng quy trình, năng suất và sản lượng chè hữu cơ không thua kém chè canh tác thông thường, đồng thời mang lại giá trị kinh tế cao hơn, đặc biệt là khi xuất khẩu.
Nghệ An hiện có trên 8.300 ha trồng chè, là tỉnh có diện tích chè lớn thứ ba cả nước với sản lượng chè búp tươi gần 80.000 tấn/năm. Tuy nhiên, diện tích chè đạt chuẩn VietGAP chỉ có 48 ha và diện tích chè hữu cơ được công nhận mới chỉ đạt khoảng 20 ha. Giá trị sản phẩm chè tại Nghệ An thấp hơn so với các địa phương khác như Thái Nguyên, Phú Thọ, Lâm Đồng. Điều này đặt ra thách thức lớn cho ngành chè tỉnh Nghệ An.
Trước tình hình này, UBND tỉnh Nghệ An đã ban hành nhiều quyết định nhằm phát triển ngành chè, trong đó có Quyết định số 4288/QĐ-UBND ngày 11/11/2021 và Quyết định số 3108/QĐ-UBND ngày 11/10/2022. Mục tiêu là đến năm 2030, diện tích chè ứng dụng công nghệ cao, sản xuất theo tiêu chuẩn VietGAP và hữu cơ đạt 8.500 ha, chiếm 70,8% diện tích trồng chè công nghiệp của tỉnh. Tuy nhiên, việc sản xuất chè hữu cơ gặp phải nhiều khó khăn như yêu cầu khắt khe về kỹ thuật, chi phí đầu tư cao, và thị trường tiêu thụ chưa ổn định.
Để vượt qua những khó khăn này, việc tuyên truyền, thay đổi nhận thức của người trồng chè là rất quan trọng. Bên cạnh đó, cần có chính sách hỗ trợ những diện tích chuyển đổi sang canh tác hữu cơ, hướng dẫn người dân tự sản xuất các chế phẩm sinh học, thảo dược và phân bón hữu cơ từ phụ phẩm nông nghiệp. Đồng thời, cần xây dựng liên kết sản xuất theo chuỗi, hình thành các hợp tác xã sản xuất chè hữu cơ và ký kết với các doanh nghiệp bao tiêu sản phẩm với giá cao hơn.
Để duy trì và mở rộng diện tích chè hữu cơ, ngoài việc phát triển thị trường tiêu thụ, cần thu hút đầu tư vào nâng cấp thiết bị, công nghệ chế biến và xây dựng thương hiệu chè Nghệ An nhằm tăng năng lực cạnh tranh và giá trị xuất khẩu. Điều này sẽ không chỉ giúp ổn định nguồn thu nhập cho người trồng chè mà còn góp phần bảo vệ môi trường và nâng cao chất lượng sản phẩm nông nghiệp của tỉnh.