Được thiên nhiên ưu đãi cho khí hậu ôn hòa, đất đai màu mỡ và nguồn nước dồi dào, xã Văn Hán, tỉnh Thái Nguyên từ lâu đã là vùng đất lý tưởng cho cây chè phát triển. Những năm gần đây, địa phương này đang chứng kiến sự chuyển mình mạnh mẽ khi tái cơ cấu ngành chè theo hướng sinh thái, hữu cơ và ứng dụng công nghệ cao. Sự đổi thay ấy không chỉ mang đến sản phẩm chè chất lượng, an toàn mà còn góp phần định hình hình ảnh một vùng quê xanh sạch, bền vững.
Vùng chè chuyển đổi hữu cơ tại xã Văn Hán.
Sau khi sáp nhập hai xã cũ Văn Hán và Khe Mo, xã Văn Hán mới hiện sở hữu hơn 1.400ha chè – một con số ấn tượng trong bức tranh nông nghiệp của Thái Nguyên. Trong đó, khu vực Văn Hán cũ có khoảng 1.000ha, với 175ha đạt chuẩn VietGAP và hữu cơ; năng suất bình quân 120 tạ/ha, sản lượng đạt 12.000 tấn, mang lại giá trị gần 300 triệu đồng/ha. Phần diện tích hơn 400ha của Khe Mo trước đây cũng được khai thác hiệu quả, góp phần hình thành vùng nguyên liệu quy mô lớn phục vụ chế biến và xuất khẩu.
Tuy nhiên, điều đáng nói hơn cả là sự thay đổi trong tư duy sản xuất của người nông dân. Nếu như trước kia, mục tiêu chính là sản lượng, thì nay, “chất lượng và an toàn sinh học” đã trở thành kim chỉ nam trong canh tác. Dưới sự hỗ trợ của Trung tâm Khuyến nông và Môi trường tỉnh Thái Nguyên, nhiều hộ dân đã bắt đầu chuyển đổi sang mô hình sản xuất hữu cơ, trong đó có ông Đoàn Văn Thái, một trong những người tiên phong của xã.
Trên diện tích 5ha chè LDP1, ông Thái liên kết cùng 5 hộ khác để xây dựng vùng chè hữu cơ kiểu mẫu. Ông chia sẻ: “Trước đây, chúng tôi dùng phân bón hóa học và thuốc trừ sâu khá phổ biến, nhưng hiệu quả không bền. Từ khi chuyển sang sử dụng phân hữu cơ và chế phẩm vi sinh Trichoderma, cây chè khỏe mạnh, lá dày, ít sâu bệnh và đặc biệt chịu hạn tốt hơn”. Không chỉ cải thiện chất lượng, năng suất chè của gia đình ông còn tăng khoảng 20% so với trước khi chuyển đổi.
Điểm đáng chú ý trong mô hình hữu cơ là quy trình chăm sóc nghiêm ngặt, tuân thủ TCVN 11041-6:2018 về nông nghiệp hữu cơ. Phân compost được ủ từ phân gia súc, gia cầm có nguồn gốc rõ ràng, sau đó rải đều và trộn kỹ với đất trước khi trồng. Đối với chè đang sinh trưởng, người dân đào hốc sâu 6–8cm giữa hai cây, hoặc cách gốc 15–30cm để bón phân hữu cơ vi sinh. Nhờ đó, đất trở nên tơi xốp, nhiều giun và vi sinh vật có lợi – minh chứng cho hệ sinh thái đất khỏe mạnh, cân bằng tự nhiên.
Theo bà Vũ Thị Thu Hương, cán bộ kỹ thuật Trung tâm Khuyến nông và Môi trường tỉnh, để vùng chè hữu cơ phát triển hiệu quả, cần áp dụng đồng bộ các giải pháp an toàn sinh học từ làm đất, tưới tiêu đến phòng trừ sâu bệnh. “Ngay cả nguồn nước tưới cũng phải được bảo vệ nghiêm ngặt khỏi nguy cơ ô nhiễm hóa chất và kim loại nặng. Việc tưới phun mưa bề mặt sẽ giúp tiết kiệm nước, đồng thời hạn chế rửa trôi đất,” bà Hương cho biết.
Đối với sâu bệnh, giải pháp được khuyến khích là sử dụng chế phẩm sinh học và thảo mộc thay cho thuốc hóa học. Ngoài ra, việc trồng xen cây bóng mát như xoan trắng, ngũ sắc, dã quỳ… không chỉ giúp điều hòa vi khí hậu mà còn xua đuổi côn trùng hại, tạo môi trường sống cho thiên địch, các loài côn trùng có lợi. Nhờ vậy, vùng chè dần hình thành hệ cân bằng sinh học tự nhiên, hạn chế tối đa tác động tiêu cực từ con người.
Tuy nhiên, sản xuất hữu cơ cũng đặt ra yêu cầu nghiêm khắc về ý thức cộng đồng. “Chỉ cần một hộ dùng thuốc hóa học, toàn bộ vùng chè sẽ mất chứng nhận. Vì vậy, yếu tố nhận thức và đồng thuận của nông dân đóng vai trò quyết định,” bà Hương nhấn mạnh. Giai đoạn đầu chuyển đổi, năng suất có thể giảm, nhưng khi hệ sinh thái ổn định, cây chè sẽ phát triển bền vững, chất lượng lá cao hơn, giá bán tốt hơn và chi phí đầu vào giảm đáng kể.
Thành công của Văn Hán không chỉ dừng lại ở những con số sản lượng hay doanh thu. Quan trọng hơn, mô hình này đang mang lại môi trường sống trong lành và văn minh nông nghiệp mới. Ông Thái chia sẻ thêm: “Từ ngày bỏ thuốc hóa học, không khí trong lành hơn, trẻ con chơi quanh đồi chè không còn mùi khó chịu. Mọi người đều cảm thấy dễ chịu và yên tâm hơn khi làm việc trên nương chè của mình.”
Với hướng đi đúng đắn, nhiều sản phẩm chè của Văn Hán đã đạt chứng nhận OCOP, mở rộng thị trường trong và ngoài tỉnh, khẳng định thương hiệu “chè xanh sạch Thái Nguyên”. Từ những đồi chè hữu cơ trải dài, xã Văn Hán đang dần định hình hình ảnh một vùng nông thôn mới phát triển bền vững, nơi mỗi búp chè không chỉ là sản vật của đất trời, mà còn là minh chứng cho nỗ lực làm nông có trách nhiệm, vì sức khỏe con người và tương lai của môi trường.