Tháo gỡ khó khăn của ngành chè sau Covid

Năm 2020 là năm khó khăn chồng chất của ngành chè cả nước khi đối diện với dịch bệnh Covid-19. Trước bối cảnh diễn biến phức tạp của đại dịch làm ảnh hưởng đến các thị trường tiêu thụ ngành chè đang nỗ lực từng bước để đạt được mục tiêu về tốc độ tăng trưởng và kim ngạch giá trị xuất khẩu.

Chặng đường đã qua

Tại Việt Nam cây chè đã trở thành cây công nghiệp phát triển ổn định, mang lại hiệu quả kinh tế cao, tạo việc làm và thu nhập cho nhiều lao động. Tính đến năm 2020, cả nước có 34 tỉnh, thành trồng chè, với 123,3 nghìn ha. Cây chè được phát triển chủ yếu ở khu vực Trung du và miền núi phía Bắc với khoảng 70% diện tích trồng chè cả nước; kế đến là vùng Tây Nguyên với khoảng 19%; vùng Bắc Trung bộ và Duyên hải miền Trung có diện tích chè chiếm 7,0% và khu vực đồng bằng Bắc bộ 4,0%. Một số địa phương có diện tích chè lớn: Thái Nguyên (22,3 nghìn ha), Hà Giang (21,5 nghìn ha), Phú Thọ (16,1 nghìn ha), Lâm Đồng (10,8 nghìn ha)…

Hiện nay, Việt Nam có trên 170 giống chè các loại đảm bảo chất lượng và cho năng suất cao, với các hương vị đặc biệt được thế giới ưa chuộng như: Chè shan, PH1, LDP1, LDP2, PT 14… và các giống chè nhập nội như PT 95, Kim Tuyên, Bát Tiên, Tứ Quý Xuân... Trong đó, chè shan là giống chè quý, được phát triển lâu đời tại một số địa phương khu vực phía Bắc như: Hà Giang, Yên Bái, Sơn La, Điện Biên… Với khoảng trên 24% tổng diện tích trồng chè cả nước, chè shan bao gồm các giống: Chè shan công nghiệp, shan vùng cao và shan đầu dòng. Hiện những rừng chè shan cổ thụ với nhiều cây hàng trăm năm tuổi của Việt Nam đang cho sản phẩm có nhiều đặc tính quý và là nguyên liệu không thể thiếu để sản xuất chè sạch, chè đặc sản, cũng như các sản phẩm chè chế biến có giá trị gia tăng cao.

Tháo gỡ khó khăn của ngành chè sau Covid - Ảnh 1

Theo đánh giá, những năm gần đây, năng suất và sản lượng chè của Việt Nam liên tục tăng nhờ sự chuyển biến tích cực về giống, kỹ thuật canh tác và tổ chức sản xuất. Bên cạnh đó, nhiều cơ chế, chính sách đã được các cấp từ Trung ương đến địa phương ban hành nhằm phát triển sản xuất và tiêu thụ chè. Đặc biệt đã có nhiều giải pháp đồng bộ được áp dụng trong vấn đề bảo đảm an toàn thực phẩm trên sản phẩm chè đã cho những kết quả khả quan.
Số liệu của Tổng cục Thống kê cho biết, năm 2019 sản lượng chè đạt mức tăng kỷ lục với trên 1018 nghìn tấn. Năng suất chè năm 2019 đạt 94,8 tạ/ha (năng suất chè đạt cao nhất từ trước đến nay. Khối lượng xuất khẩu năm 2019 đạt 137,1 nghìn tấn, giá trị 236,4 triệu USD. Giá chè xuất khẩu bình quân năm 2019 ước đạt 1.730 USD/tấn.

Tuy nhiên, từ đầu năm 2020 ngành chè bị tác động rất lớn bởi các thị trường xuất khẩu gần như bị đóng băng và giá chè sụt giảm mạnh. Cụ thể, trong 2 tháng đầu năm 2020, Pakistan, Nga, Đài Loan, Indonesia và Mỹ là 5 thị trường xuất khẩu chính của Việt Nam, chiếm tỷ trọng 74,5% trong tổng kim ngạch xuất khẩu chè cả nước. Giá chè xuất khẩu bình quân 2 tháng đầu năm 2020 đạt 1.481 USD/tấn, giảm 13,5% so với cùng kỳ năm 2019.

Đáng chú ý, trong 2 tháng đầu năm 2020, tổng xuất khẩu chè của Việt Nam sang thị trường xuất khẩu chè sang Trung Quốc giảm mạnh năm 2020 do hạn chế trong việc thông quan do ảnh hưởng của dịch Covid-19 và kỳ nghỉ Tết kéo dài của nước này. Những tháng đầu năm chỉ đạt 364 tấn, tương đương 427 nghìn USD, giảm 54,1% về lượng và giảm 87,4% về giá trị so với cùng kỳ năm 2019. Thị phần của nước này trong tổng kim ngạch xuất khẩu chè của Việt Nam hiện chỉ đạt 1,7% (xếp vị trí thứ 10), giảm từ mức 11,4% (xếp vị trí thứ 3) trong cùng kỳ năm 2019.

Giải pháp biến “nguy” thành “cơ”

Để ngành chè có hướng đi bền vững sau đại dịch, cần áp dụng và triển khai đồng bộ các giải pháp nhằm đổi mới quy trình sản xuất, chế biến, nâng cao giá trị xuất khẩu. Tăng nội tiêu, tăng chế biến nhằm giảm áp lực lên xuất khẩu chè.

Cùng với các ngành hàng khác, thì ngành chè cũng đang đẩy mạnh hợp tác công tư (PPP) nhằm hướng phát triển bền vững, bảo vệ môi trường. Điều này giúp ngành chè Việt Nam được nâng cao cả về chất lượng và vị thế để tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu.

Phát triển ngành chè bền vững quan trọng nhất vẫn là truy xuất nguồn gốc, bảo đảm an toàn thực phẩm. Ở góc độ cơ quan quản lý, ông Nguyễn Quý Dương, Phó Cục trưởng Cục Bảo vệ thực vật - Bộ NN&PTNT cho biết, dưới vai trò quản lý Nhà nước, Cục Bảo vệ thực vật đã tham gia vào nhóm PPP của ngành chè. Cùng với Hiệp hội Chè Việt Nam và 12 công ty, Cục Bảo vệ thực vật đã thành lập những tổ đội chuyên trách vấn đề bảo vệ thực vật. Theo đó, những tổ đội sẽ có nhiệm vụ tập huấn cho người dân sử dụng thuốc bảo vệ thực vật theo nguyên tắc 4 đúng, cách kiểm soát dư lượng thuốc, cách nhận biết danh sách những loại thuốc bảo vệ thực vật được sử dụng trên cây chè. Mục tiêu cuối cùng là đảm bảo chất lượng sản phẩm chè, đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm để phục vụ cho xuất khẩu. Cùng với vấn đề an toàn thực phẩm, việc truy xuất nguồn gốc, cấp mã số vùng trồng cũng đang được các nước nhập khẩu đặc biệt quan tâm, nhất là khi các Hiệp định FTA được thực thi.

Năm tới đây cần giữ ổn định diện tích cây chè, nhưng phải nâng cao giá trị gia tăng của chè và sản phẩm trà. Các địa phương cần đánh giá lại thực trạng sản xuất, kinh doanh, đầu tư, chỉ đạo, tổ chức sản xuất, chế biến, tiêu thụ, xuất khẩu. Nhằm nâng cao chất lượng trà, cần đẩy mạnh chế biến, liên kết; phân khúc sản phẩm trà, từ đó gắn với chọn giống và chế biến trà; chú ý phát triển, nâng cao chất lượng các sản phẩm mới, nhưng đồng thời cũng phải nâng cao chất lượng sản phầm trà truyền thống.

Hương Trà