Theo báo cáo của Cục Thuế TP.Đà Nẵng, tính đến tháng 6/2023, số tiền thuế nợ, tiền phạt, tiền chậm nộp là: 6.141,34 tỷ đồng (tăng 21,6% so với năm 2022). Trong đó: Nợ khả năng thu: 4.258,01 tỷ đồng (tăng 37,5%); Nợ khó thu 303,56 tỷ đồng (tăng 8,56%); Nợ chờ xử lý: 1.579,76 tỷ đồng (giảm 5,25%).
Để triển khai thu nợ thuế, Cục Thuế đã ban hành thông báo nợ, tỷ lệ 100% đối với người nợ thuế phải thông báo; Đã ban hành 7.715 Quyết định cưỡng chế với số tiền 16.957,54 tỷ đồng. Công khai 3.421 người nợ thuế với số tiền 2.283,93 tỷ đồng trên Website Cục Thuế TP.Đà Nẵng.
Lãnh đạo Cục Thuế TP. Đà Nẵng cho hay, nguyên nhân tăng nợ là do tình hình sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp vẫn còn gặp nhiều khó khăn, nhiều doanh nghiệp rơi vào tình trạng thua lỗ, mất khả năng thanh toán. Bên cạnh đó, các khoản nợ tiền sử dụng đất, tiền thuê đất và tiền cấp quyền khai thác khoáng sản của một số dự án do có vướng mắc chưa đi vào hoạt động, khai thác, chờ các địa phương giải phóng mặt bằng, giải quyết đền bù, tranh chấp, hoặc chờ phê duyệt phương án điều chỉnh mục đích sử dụng, điều chỉnh diện tích khai thác nên người nộp thuế chưa nộp tiền vào ngân sách nhà nước. Tuy nhiên, theo quy định pháp luật, cơ quan Thuế vẫn phải tính nợ theo thông báo nộp tiền sử dụng đất, tiền thuê đất, tiền cấp quyền khai thác khoáng sản.
Ngoài ra, một bộ phận người nộp thuế khi chưa chấp hành tốt các quy định của pháp luật về thuế; chây ỳ không nộp thuế đúng hạn, nợ thuế kéo dài khiến cơ quan Thuế tiến hành xử phạt, tính tiền chậm nộp dẫn đến khoản tiền phải nộp tăng lên. Nguyên nhân khác là do một số công chức quản lý nợ chưa kiên quyết áp dụng các biện pháp thu hồi nợ thuế kịp thời, chưa tích cực trong việc đôn đốc người nộp thuế nộp số tiền thuế, tiền thuê đất sau khi đã hết thời gian gia hạn nộp thuế theo Nghị quyết, Nghị định của Chính phủ vào ngân sách nhà nước.
Theo Cục Thuế TP. Đà Nẵng, toàn ngành xây dựng kế hoạch, biện pháp thu tiền thuế nợ theo từng tháng, quý cho các bộ phận và từng công chức được phân công quản lý nợ thuế, gắn chỉ tiêu giảm nợ, gắn trách nhiệm đôn đốc thu nợ, xử lý nợ đọng thuế cụ thể đối với từng đồng chí lãnh đạo và từng cán bộ quản lý nợ thuế. Mặt khác thực hiện phân loại nợ trên Hệ thống quản lý thuế ứng dụng tập trung (TMS) chính xác, đúng tính chất của các khoản tiền thuế nợ; theo dõi sát tình hình diễn biến nợ, tình trạng nợ của từng đối tượng (doanh nghiệp, tổ chức, hộ gia đình, cá nhân...) để thực hiện việc đôn đốc thu nợ thuế kịp thời đúng quy trình quản lý nợ.
Đồng thời chủ động giám sát tình trạng hoạt động của từng doanh nghiệp, chủ động rà soát các doanh nghiệp nhiều tháng không phát sinh doanh thu, đã cưỡng chế hóa đơn nhưng không đề nghị xuất hóa đơn lẻ, phải thực hiện kiểm tra tại địa điểm hoạt động, xác định thực trạng và hoàn thiện hồ sơ để thực hiện phân loại nợ theo đúng quy định./.
Bùi Quốc Dũng