Tình hình xuất khẩu chè của Việt Nam tháng 7/2021
Theo ước tính của Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công Thương), xuất khẩu chè trong tháng 7/2021 đạt 10 nghìn tấn, trị giá 18 triệu USD, giảm 25,2% về lượng và giảm 18,9% về trị giá so với tháng 7/2020. Tính chung trong 7 tháng đầu năm 2021, xuất khẩu chè ước đạt 68 nghìn tấn, trị giá 113 triệu USD, giảm 4,2% về lượng và giảm 0,2% về trị giá so với cùng kỳ năm 2020.
Giá chè xuất khẩu bình quân trong tháng 7/2021 ước đạt 1.800 USD/tấn, tăng 8,5% so với tháng 7/2020. Giá chè xuất khẩu bình quân trong 7 tháng đầu năm 2021 ước đạt 1.657,5 USD/tấn, tăng 4,5% so với cùng kỳ năm 2020.
Chè đen và chè xanh là hai chủng loại chè xuất khẩu chính trong trong 6 tháng đầu năm 2021. Trong đó, xuất khẩu chè đen đạt 29,2 nghìn tấn, trị giá 40,47 triệu USD, giảm 4,4% về lượng và giảm 1,7% về trị giá so với cùng kỳ năm 2020. Chè đen được xuất khẩu chủ yếu tới thị trường Nga, Irắc, Đài Loan, Pa-ki-xtan.
Xuất khẩu chè xanh đạt 24,8 nghìn tấn, trị giá 45,8 triệu USD, tăng 5% về lượng và tăng 8,6% về trị giá so với cùng kỳ năm 2020. Chè xanh được xuất khẩu chủ yếu tới thị trường Pa-ki-xtan, chiếm 58,3% tổng lượng chè xanh xuất khẩu.
Đáng chú ý, trong nửa đầu năm 2021, xuất khẩu chè ô long tăng rất mạnh cả về lượng và trị giá, mặc dù giá giảm mạnh, đạt 151 tấn, trị giá 291 nghìn USD, tăng 77,9% về lượng và tăng 41,2% về trị giá so với cùng kỳ năm 2020. Chè ô long được xuất khẩu chủ yếu sang thị trường Đài Loan với lượng chiếm 98,4% tổng lượng chè ô long xuất khẩu.
Nhập khẩu chè của Australia trong 6 tháng đầu năm 2021 đạt 7,4 nghìn tấn, trị giá 60,3 triệu USD, tăng 27,2% về lượng và tăng 39% về trị giá so với cùng kỳ năm 2020. Giá chè nhập khẩu bình quân trong 6 tháng đầu năm 2021 đạt 8.184,3 USD/tấn, tăng 9,2% so với cùng kỳ năm 2020.
Thị trường chè thế giới
Kê-ni-a: Theo Hội đồng chè Kê-ni-a, trong tháng 5/2021 sản lượng chè của Kê-ni-a đạt 45,32 nghìn tấn, tăng 2,3% so với tháng 4/2021, do lượng mưa tốt tại hầu hết các vùng trồng chè trong nửa đầu tháng 5/2021. Tuy nhiên lượng mưa vẫn thấp hơn nhiều so với cùng kỳ năm 2020, do vậy sản lượng chè vẫn giảm 3,6% so với tháng 5/2020 .
Trong 5 tháng đầu năm 2021, sản lượng chè của Kê-ni-a đạt 230,6 nghìn tấn, giảm 9,4% so với cùng kỳ năm 2020. Với điều kiện thời tiết không thuận lợi trong năm 2021, cùng với ảnh hưởng của điều kiện thời tiết lạnh giá dự kiến sẽ tiếp tục kéo dài đến tháng 8/2021, sau đó là thời tiết khô hạn đến tháng 10/2021, dự báo sản lượng chè sẽ tiếp tục ở mức thấp đến hết năm 2021.
Xuất khẩu chè của Kê-ni-a trong tháng 5/2021 đạt 50,76 nghìn tấn, tăng 27% so với tháng 5/2020. Trong 5 tháng đầu năm 2021, xuất khẩu chè của Kê-ni-a đạt 253,5 nghìn tấn, tăng 19% so với cùng kỳ năm 2021. Trong tháng 5/2021, Kê-ni-a xuất khẩu chè tới 51 thị trường, tăng thêm 9 thị trường so với tháng 5/2020. Kê-ni-a xuất khẩu chè nhiều nhất tới thị trường Pa-ki-xtan, đạt 20,16 nghìn tấn, chiếm 39,7% lượng chè xuất khẩu; tiếp theo là Ai Cập, Anh, Nga, Y-ê-men, Các TVQ Ả rập Thống nhất…
Trung Quốc: Theo số liệu thống kê của Cơ quan Hải quan Trung Quốc, tháng 6/2021, xuất khẩu chè của Trung Quốc đạt 29,1 nghìn tấn, trị giá 199 triệu USD, giảm 8,39% về lượng và giảm 6,01% về trị giá so với tháng 6/2020; giá chè xuất khẩu bình quân đạt 6,86 USD/kg, tăng 2,6% so với tháng 6/2020.
Trong 6 tháng đầu năm 2021, xuất khẩu của Trung Quốc chè đạt 164,8 nghìn tấn, trị giá 987 triệu USD, giảm 6,26% về lượng và giảm 0,72% về trị giá so với cùng kỳ năm 2020; giá chè xuất khẩu bình quân trong 6 tháng đầu năm 2021 đạt 5,99 USD/kg, tăng 5,91% so với cùng kỳ năm 2020. Trung Quốc xuất khẩu chè xanh đạt 139,2 nghìn tấn trong 6 tháng đầu năm 2021, giảm 6,5% so với cùng kỳ năm 2020, chiếm 84,5% tổng lượng chè xuất khẩu; tiếp theo là chè đen đạt 12,8 nghìn tấn, giảm 22,4%, chiếm 7,8%; chè ô long đạt 8,87 nghìn tấn, giảm 3,0%, chiếm 5,4%; chè ướp hoa đạt 2,6 nghìn tấn, giảm 14,2%, chiếm 1,6%; chè Phổ Nhĩ xuất khẩu đạt 1,11 nghìn tấn, giảm 11,5% chiếm 0,7%