9 tháng năm 2021 xuất khẩu chè giảm cả lượng và kim ngạch
Theo số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan, trong 9 tháng năm 2021 cả nước xuất khẩu 91.595 tấn chè các loại, tương đương 153,29 triệu USD, giá trung bình 1.673,6 USD/tấn, giảm 6,6% về lượng, giảm 2,5% về kim ngạch nhưng tăng 4,4% về giá so với cùng kỳ năm 2020.
Riêng tháng 9/2021 xuất khẩu 11.695 tấn, đạt 20,33 triệu USD, giá 1.738,5 USD/tấn, tăng 13% về lượng và tăng 16,6% kim ngạch và tăng 3% về giá so với tháng 8/2021.
Chè của Việt Nam xuất khẩu nhiều nhất sang thị trường Pakistan, chiếm 30,4% trong tổng khối lượng và chiếm 35,7% trong tổng kim ngạch xuất khẩu chè của cả nước, đạt 27.821 tấn, tương đương 54,69 triệu USD, giá trung bình 1.965,9 USD/tấn, giảm 4,9% về lượng, giảm 2% về kim ngạch nhưng tăng 3% về giá so với cùng kỳ năm 2020.
Xuất khẩu chè 9 tháng năm 2021 (Tính toán từ số liệu công bố ngày 12/10/2021 của TCHQ)
Hiệp hội Chè Việt Nam nhận định, năm 2021, ngành chè gặp rất nhiều khó khăn, khi các hợp đồng xuất khẩu của các doanh nghiệp đã ký kết nhưng do dịch Covid-19 khiến nhiều hợp đồng bị giãn, hoãn, thậm chí một số hợp động còn bị yêu cầu giảm giá, trong khi đó, các hợp đồng mới gần như không có. Đáng chú ý, vấn đề chi phí vận tải cũng gây khó khăn cho nhiều ngành hàng nông sản, trong đó có ngành chè. Nếu như mọi năm, chi phí vận tải chỉ khoảng 700 – 900 USD/container thì năm nay lên tới 2.700 – 3.000 USD/container, cao gấp 3 lần, tạo sức ép rất lớn về chi phí, trong khi giá chè lại giảm. Trong bối cảnh đó, thị trường nội địa là một trong những thị trường quan trọng cho mặt hàng này.
Ước tính, tiêu thụ nội địa ước cả năm duy trì ở mức 45.000 tấn, với giá bán đạt 150 nghìn đồng/kg. Hiện nay, một số dòng chè Shan, nhất là dòng chè Shan mới có giá bán cao, tiêu thụ ổn định. Tiêu thụ nội địa đã giúp ngành chè tháo gỡ một phần khó khăn khi xuất khẩu bị ảnh hưởng.
Chuyển hướng về nội địa với phương châm “Người Việt dùng hàng Việt”
Là một trong những hợp tác xã chè xuất khẩu chủ lực, từ khi dịch Covid-19 bùng phát, công ty đã giảm mạnh lượng xuất khẩu, tuy nhiên, với kho chứa lớn, HTX La Bằng (Đại Từ, Thái Nguyên) vẫn thu mua đều đặn hơn chục tấn chè mỗi tháng cho dân. Để bảo đảm liên kết bền vững, HTX phải giữ đúng cam kết bao tiêu sản phẩm, còn các hộ tham gia liên kết phải tuân thủ sản xuất chè đúng quy trình VietGAP và hữu cơ. Tuy nhiên, thay vì xuất khẩu, công ty đã đẩy mạnh tiêu thụ nội địa thông qua hàng trăm điểm giới thiệu đặc sản tại các xã vùng chè mà tỉnh Thái Nguyên và các doanh nghiệp phối hợp xây dựng. Nhiều điểm bán còn chế biến sản phẩm mới như: nước uống, kẹo, bột matcha từ chè… để đa dạng sản phẩm phục vụ khách hàng.
Bà Nguyễn Thị Hải, Giám đốc HTX chè La Bằng cho biết, HTX xây dựng mô hình sản xuất chè theo chuỗi, đồng nhất về kỹ thuật trồng, chăm sóc, chế biến, đóng gói nên chất lượng được nâng cao, chè sạch, hương vị đặc trưng, được người tiêu dùng tín nhiệm, ưa chuộng. Đây là lý do để sản phẩm của HTX đã chinh phục không chỉ người tiêu dùng nhiều thị trường trên thế giới mà còn cả thị trường nội địa.
Không chỉ HTX La Bằng mà nhiều năm gần đây, các doanh nghiệp chè đã chuyển hướng về thị trường nội địa nhằm đa dạng hóa đầu ra cho sản phẩm, Nhiều địa phương cũng có chính sách thúc đẩy tiêu thụ nội địa, như Thái Nguyên đã chú trọng hỗ trợ hạ tầng sản xuất, chi phí phân bón, 100% chi phí chứng nhận sản phẩm hữu cơ, thiết kế bao bì và xúc tiến tiêu thụ sản phẩm. Linh hoạt, kiên trì giữ vững thị trường nội địa, cây chè đã thành cây làm giàu, vùng chè thành sản phẩm du lịch hấp dẫn, cho thu nhập cao và ổn định, bình quân 250 triệu đồng/ha/năm.
Tại Công ty cổ phần chè Tân Cương – Hoàng Bình, một trong những doanh nghiệp xuất khẩu chè lớn nhất tỉnh, việc chuyển hướng sang thị trường nội địa đã thực hiện trong khoảng vài năm trở lại đây. Bà Đỗ Thị Đức Lý, Giám đốc công ty chia sẻ, những năm trước đây, công ty xuất khẩu khoảng 2.500 tấn chè thành phẩm/năm song hiệu quả kinh tế không cao.
Sau khi đầu tư quảng bá thương hiệu, liên kết với các hợp tác xã, hộ trồng chè quy mô lớn tạo vùng nguyên liệu ổn định, công ty tập trung phát triển thị trường trong nước thông qua hệ thống các siêu thị lớn gồm: Big C, Hapro mart, Coop mart… và các nhà phân phối lớn về ngành hàng thực phẩm, đồ uống.
Với 4 dòng sản phẩm phục vụ người tiêu dùng từ bình dân đến cao cấp, mức giá từ 100.000 – 4.500.000 đồng/kg, sản phẩm chè Tân Cương – Hoàng Bình đã có chỗ đứng nhất định trên thị trường nội địa. 9 tháng qua, doanh thu của công ty đạt trên 6,2 tỷ đồng, cao hơn cùng kỳ năm trước khoảng 20%… Công ty đầu tư thêm thiết bị, máy móc đóng gói hiện đại, đảm bảo năng lực sản xuất, chế biến 18 tấn búp tươi mỗi ngày…
Theo Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Thái Nguyên, không chỉ các doanh nghiệp lớn mà các hợp tác xã sản xuất chế biến chè trên địa bàn ngày càng chú trọng tới việc đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm ở thị trường trong nước. Một số doanh nghiệp, hợp tác xã ở các vùng chè nổi tiếng trong tỉnh như: Tân Cương, La Bằng, Tức Tranh, Minh Lập… đã có thị trường ổn định và sức tiêu thụ các sản phẩm chè an toàn ngày càng cao. Việc tập trung phát triển thị trường nội tiêu, sản xuất các loại sản phẩm chất lượng, an toàn là một hướng đi đảm bảo cho sự phát triển bền vững của ngành chè Thái Nguyên.
Thứ trưởng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Lê Quốc Doanh đề nghị: Những năm tới đây, để giữ ổn định diện tích cây chè, nhưng phải nâng cao giá trị gia tăng của chè và sản phẩm trà. Do đó, các địa phương cần đánh giá lại thực trạng sản xuất, kinh doanh, đầu tư, chỉ đạo, tổ chức sản xuất, chế biến, tiêu thụ, xuất khẩu. Nhằm nâng cao chất lượng chè, cần đẩy mạnh chế biến, liên kết; phân khúc sản phẩm chè, từ đó gắn với chọn giống và chế biến trà; chú ý phát triển, nâng cao chất lượng các sản phẩm mới, nhưng đồng thời cũng phải nâng cao chất lượng sản phầm truyền thống.
* Bài viết tuyên truyền thực hiện Nghị quyết số 84/NQ-CP ngày 29/5/2020 của Chính phủ.